Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11 ước tính đạt 21,60 tỷ USD, giảm 4,1% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 5,89 tỷ USD, giảm 4,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 15,71 tỷ USD, giảm 4%.
Kim ngạch xuất khẩu phần lớn các mặt hàng trong tháng giảm so với tháng trước, trong đó sắt thép giảm 30,8%; xăng dầu giảm 12,7%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 8,3%; hàng dệt may giảm 4,8%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11 tăng 7,8%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 10,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 6,7%.
Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Hóa chất tăng 36,4%; hàng dệt may tăng 20,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 20,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 18,9%; điện thoại và linh kiện tăng 2,5%.
Tính chung 11 tháng năm 2018, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 223,63 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 63,24 tỷ USD, tăng 17,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 160,39 tỷ USD (chiếm 71,7% tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng 13,4%.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 46,1 tỷ USD, tăng 11,5%; hàng dệt may đạt 27,8 tỷ USD, tăng 17,4%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 27 tỷ USD, tăng 13,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 15,1 tỷ USD, tăng 28,6%; giày dép đạt 14,5 tỷ USD, tăng 9,9%.
Bên cạnh đó, một số mặt hàng nông sản, thủy sản cũng tăng khá: Thủy sản đạt 8 tỷ USD, tăng 6,1%; rau quả đạt 3,5 tỷ USD, tăng 11,6%; cà phê đạt 3,3 tỷ USD, tăng 2,9% (lượng tăng 23%); gạo đạt 2,9 tỷ USD, tăng 16,8% (lượng tăng 4,8%).
Một số mặt hàng nông sản tuy lượng xuất khẩu tăng nhưng do giá xuất khẩu bình quân giảm nên kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm trước: Hạt điều đạt 3,1 tỷ USD, giảm 4,2% (lượng tăng 4,5%); cao su đạt 1,9 tỷ USD, giảm 6,1% (lượng tăng 14,8%); hạt tiêu đạt 720 triệu USD, giảm 32,3% (lượng tăng 9,1%).
Riêng dầu thô tính chung 11 tháng tiếp tục giảm mạnh về cả lượng và kim ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ năm trước: Kim ngạch xuất khẩu dầu thô đạt 2,1 tỷ USD, giảm 20,4% (lượng giảm 42,5%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 11 tháng, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 43,7 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 49,8%; giày dép tăng 14,6%; hàng dệt may tăng 12,4%. Tiếp đến là EU đạt 38,2 tỷ USD, tăng 8,8%, trong đó hàng dệt may tăng 9,7%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 9,3%; điện thoại và linh kiện tăng 8%.
Trung Quốc đạt 38,1 tỷ USD, tăng 23,2%, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 57,9%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 24,8%; rau quả tăng 8,6%. Thị trường ASEAN đạt 22,7 tỷ USD, tăng 14%, trong đó gạo tăng 107,7%; sắt thép tăng 40,7%; hàng dệt may tăng 35,3%...
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 11 ước tính đạt 22,0 tỷ USD, tăng 1,1% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,8 tỷ USD, tăng 3,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13,2 tỷ USD, giảm nhẹ 0,2%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng so với tháng trước: Xăng dầu tăng 11,6%; xe máy và linh kiện, phụ tùng tăng 4,5%; điện thoại và linh kiện tăng 4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 3,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 1,7%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu tháng 11 tăng 12,7%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 13%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,5%. Một số mặt hàng có kim ngạch tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Xe máy và linh kiện, phụ tùng tăng 69,1%; chất dẻo tăng 28,2%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 14,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 7,2%.
Tính chung 11 tháng, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 216,82 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 86,63 tỷ USD, tăng 12,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 130,19 tỷ USD, tăng 12,3%.
Một số mặt hàng có giá trị kim ngạch nhập khẩu lớn trong 11 tháng: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 38,7 tỷ USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 30,7 tỷ USD, giảm 0,7%; điện thoại và linh kiện đạt 14,4 tỷ USD, giảm 0,8%; vải đạt 11,8 tỷ USD, tăng 13,6%; sắt thép đạt 9,2 tỷ USD, tăng 10,2%; chất dẻo đạt 8,3 tỷ USD, tăng 20,9%; xăng dầu đạt 7,3 tỷ USD, tăng 15,4%; kim loại thường đạt 6,8 tỷ USD, tăng 28,4%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 5,3 tỷ USD, tăng 6,2%; hóa chất đạt 4,7 tỷ USD, tăng 27,8%.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 11 tháng, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 59,7 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó xăng dầu tăng 110%; vải tăng 18,7%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng tăng 9,8%; điện thoại và linh kiện tăng 2,6%.
Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc với kim ngạch nhập khẩu đạt 43,5 tỷ USD, tăng 1,7%, trong đó sắt thép tăng 17,2%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 14,3%. ASEAN đạt 29 tỷ USD, tăng 13,5%, trong đó ô tô nguyên chiếc tăng 29,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 16,7%; xăng dầu tăng 10,8%...
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 10 xuất siêu 770 triệu USD. Tháng 11 ước tính nhập siêu 400 triệu USD. Tính chung 11 tháng xuất siêu 6,8 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 23,4 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 30,2 tỷ USD.