Theo ông Long, M&A có thể tăng mạnh hiệu quả hoạt động của DN, nhưng nhìn chung đó là một quá trình phức tạp, kéo dài và các bên tham gia phải nhận thức được mức độ phức tạp của quá trình đó.
Theo thống kê của Công ty AVM, năm 2010 có gần 300 thương vụ M&A diễn ra tại Việt Nam. Để giúp công chúng đầu tư hiểu hơn về M&A, xin ông đưa ra một khái niệm dễ hiểu, dễ hình dung về hoạt động này?
Cụm từ M&A (Merge & Acquisition) bao hàm nhiều hoạt động kinh tế khác nhau, có thể là hoạt động tái tổ chức DN và/hoặc hoạt động tập trung kinh tế. Tạm thời có thể chia thành bốn hoạt động: (i) hợp nhất; (ii) sáp nhập (Merge); (iii) mua lại DN thông qua việc mua cổ phiếu (stock sales) để chi phối DN; (iv) mua lại tài sản - asset sales (Acquisition).
Về cơ bản, hoạt động hợp nhất, sáp nhập là quá trình thống nhất tổ chức giữa các DN bị hợp nhất, bị sáp nhập (tổ chức lại DN). Kết quả đều dẫn tới chỉ còn tồn tại một DN, đó có thể là DN hoàn toàn mới được lập ra (trong trường hợp hợp nhất), hoặc tiếp tục duy trì một DN đã có từ trước (trong trường hợp sáp nhập) và DN hình thành này sẽ tiếp nhận toàn bộ quyền lợi, nghĩa vụ của các DN bị hợp nhất, bị sáp nhập. Trong khi đó, kết quả hoạt động mua lại DN là sự thiết lập quan hệ sở hữu giữa DN mua lại và DN bị mua lại.
Trực tiếp điều tiết hoạt động M&A tại Việt Nam là những văn bản pháp lý nào, thưa ông?
Ông Nguyễn Thành Long |
Hiện nay, các văn bản pháp quy trực tiếp điều tiết hoạt động M&A tại Việt Nam là: (i) Luật Cạnh tranh 2004, Điều 16 đến 24; (ii) Bộ luật Dân sự 2005, Điều 94, 95; (iii) Luật Doanh nghiệp 2005, Điều 152, 153; (iv) Luật Đầu tư 2005, Điều 21, 25, 26; (v) Luật Chứng khoán 2006, Điều 29, 32, 69; (vi) Luật Chứng khoán sửa đổi… Trong đó, Luật Doanh nghiệp là cơ sở pháp lý chính cho hoạt động M&A. Các luật khác chỉ đề cập hoặc điều chỉnh một số nội dung nhất định của tiến trình M&A.
Nhìn chung, quy định về M&A tại Việt Nam hiện nay đã bắt đầu hình thành với những nội dung căn bản nhất. Tuy nhiên, vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện, đồng thời kết hợp với việc hệ thống hóa các quy định còn nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp lý vào văn bản có mức độ pháp lý cao hơn, đồng thời cũng phải có những quy định hướng dẫn mang tính kỹ thuật ở những văn bản có mức độ pháp lý thấp hơn, chẳng hạn như những quy định về quản trị công ty, hướng dẫn công ty có những quy định tại Điều lệ cho phép HĐQT áp dụng các biện pháp nhằm chống thâu tóm thù nghịch, thậm chí là quy định mang tính nguyên tắc về việc xác định mức giá chào mua công khai nhằm bảo đảm quyền lợi của cổ đông cũng như ngăn chặn các hiện tượng lạm dụng thị trường.
Trên thực tế, các mục tiêu căn bản mà một thương vụ M&A cần đạt được là bảo vệ được quyền lợi của cổ đông, đặc biệt là cổ đông thiểu số; bảo vệ quyền lợi của chủ nợ; bảo vệ quyền lợi của người lao động và bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Trong lĩnh vực chứng khoán, UBCK dự kiến làm gì để tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến hoạt động M&A, thưa ông?
Hiện nay, nhiều nội dung liên quan tới hoạt động M&A trong phạm vi điều chỉnh của Luật Chứng khoán đang được dự thảo. Cụ thể, dự thảo Nghị định hướng dẫn một số điều của Luật Chứng khoán đang được UBCK lấy ý kiến đã có những quy định về điều kiện, hồ sơ, thủ tục đăng ký phát hành cổ phiếu để hoán đổi áp dụng cho hoạt động hợp nhất, sáp nhập của các công ty đại chúng.
Bên cạnh đó, dự thảo Nghị định cũng có các nội dung liên quan tới hoạt động chào mua công khai (thực chất là nâng cấp từ Thông tư 194/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn việc chào mua công khai cổ phiếu của công ty đại chúng, chứng chỉ quỹ của quỹ đóng ban hành ngày 2/10/2009).
Ngoài ra, để tạo hành lang pháp lý cho việc tái cấu trúc hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán, UBCK cũng đã dự thảo các quy định tại các thông tư thay thế Quy chế hướng dẫn tổ chức, hoạt động công ty quản lý quỹ, Quy chế hướng dẫn tổ chức, hoạt động CTCK, ban hành kèm theo các Quyết định 35/2007/QĐ-BTC, Quyết định 27/2007/QĐ-BTC, trong đó hướng dẫn một cách chi tiết toàn bộ trình tự, thủ tục việc hợp nhất, sáp nhập các tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Khảo sát của Báo ĐTCK và Sở GDCK Hà Nội cuối năm 2010 cho thấy, có tới 20% DN có tâm trạng lo lắng về áp lực bị thâu tóm sau khi niêm yết. Vậy theo ông, DN phải làm gì để tự bảo vệ mình trước khả năng bị thâu tóm?
Hoạt động M&A có thể là thân thiện, dựa trên sự đồng thuận của tất cả các bên, nhưng cũng có thể là không thân thiện, tạm gọi là hoạt động thâu tóm (hostile takover).
Trong hoạt động M&A thân thiện, các công ty tham gia chủ động tham gia quá trình thương thảo có tính xây dựng. Điều này thể hiện rõ nhất tại các thương vụ hợp nhất, sáp nhập hoặc M&A theo hình thức bán tài sản, khi quyền quyết định hợp nhất, sáp nhập, bán tài sản với giá trị lớn được thực hiện tại ĐHCĐ theo quy định của điều lệ công ty và quy định pháp luật. Tuy nhiên, đối với các hoạt động như chào mua công khai thì có thể xảy ra tình trạng thâu tóm không thân thiện, khi mà công ty mục tiêu không muốn bị thâu tóm hoặc khi hoạt động thâu tóm đang được thực hiện một cách lặng lẽ mà HĐQT của công ty mục tiêu hoàn toàn không biết về kế hoạch đó.
Để hạn chế việc bị thâu tóm, người ta có thể sử dụng một số quy định quản trị công ty để phòng ngừa theo nguyên tắc làm tăng tối đa chi phí cho hoạt động thâu tóm, làm giảm mức độ kiểm soát của bên đi thâu tóm sau khi M&A. Đó có thể là các giải pháp chiến lược (được áp dụng liên tục trong quy chế quản trị công ty) hoặc giải pháp chiến thuật (được áp dụng trong trường hơp phát sinh tình thế). Về nguyên tắc, khả năng DN tự bảo vệ mình trước nguy cơ bị thâu tóm là có thể thực hiện được, nhưng điều này không dễ dàng khi việc áp dụng chúng trong thực tiễn đòi hỏi sự am hiểu sâu sắc về quản trị DN của đội ngũ nhân sự cao cấp của công ty.
Ông đánh giá như thế nào về chất lượng dịch vụ M&A tại Việt Nam hiện nay?
Hiện nay, có khá nhiều CTCK, tư vấn tài chính, kiểm toán tham gia vào làm trung gian, môi giới cho hoạt động M&A. Tuy nhiên, do có những hạn chế về nhân sự, tính chuyên nghiệp, cơ sở dữ liệu, thông tin..., nên hầu hết các đơn vị này chưa thể trở thành cầu nối hữu hiệu cho các bên mua - bán gặp nhau một cách hiệu quả.
Nhìn chung, M&A là một quá trình phức tạp, kéo dài thậm chí hàng năm và các bên tham gia phải tự nhận thức được mức độ phức tạp của quá trình đó. Tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn M&A phải có một đội ngũ chuyên gia có kiến thức, có kinh nghiệm chuyên sâu về các lĩnh vực khác nhau như luật pháp, tài chính DN, chứng khoán, định giá...
DN Việt Nam khi muốn thực hiện M&A cần lưu ý những vấn đề gì, thưa ông?
Các DN Việt Nam cần nhận thức rằng, M&A có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp, tạo ra giá trị lớn hơn nhiều so với giá trị mang lại cho DN, cho cổ đông nếu hoạt động một cách độc lập. Sau khi M&A, hiệu quả hoạt động của DN có thể cao hơn nhiều nhờ tăng quy mô, giảm nhân viên và các chi phí, tăng cường khả năng thanh khoản, thị phần, rút ngắn thời gian thâm nhập một thị trường mới...
Về kỹ thuật thực hiện, các bên tham gia cần lưu ý tìm hiểu kỹ các quy định pháp luật về M&A, quy định về tập trung kinh tế, chống hạn chế cạnh tranh, các vấn đề liên quan đến thuế, nghĩa vụ đối với Nhà nước. Cần đánh giá đúng đắn tình hình, từ nhận dạng mục tiêu, chiến lược phát triển, tiêu chí lựa chọn đối tác, vấn đề xác định giá trị DN (tỷ lệ hoán đổi, giá chào mua…). Bên cạnh đó, vấn đề bảo mật thông tin cũng là một yếu tố quan trọng quyết định tới sự thành bại của một thương vụ M&A.