Trong số 2.000 sinh viên trên chỉ có 90 người có thể vượt qua được 60/100 câu hỏi kỹ thuật căn bản thuộc các lĩnh vực điện, điện tử... và tiếng Anh căn bản. Tiếp đó, chỉ còn 40 sinh viên vượt qua cuộc phỏng vấn bằng tiếng Anh để có thể được đưa sang nhà máy của Intel ở Malaysia học và làm quen với công việc. Thông tin vừa được báo chí đăng tải một lần nữa cảnh báo về tình trạng khan hiếm lao động có chuyên môn tại Việt Nam và đây là một trong những thực tế làm cho môi trường kinh doanh giảm sức hấp dẫn trong mắt các NĐT lớn. Thách thức về nguồn nhân lực đang được coi là một rào cản tăng trưởng đã tồn tại từ lâu tại Việt Nam và trong bối cảnh thu hút đầu tư nước ngoài, cạnh tranh sản xuất - kinh doanh trên toàn cầu ngày một khốc liệt, vấn đề này lại được đề cập nóng bỏng hơn bao giờ hết.
Ông Paul Fairhead, Chủ tịch Chi nhánh Hà Nội Phòng thương mại Australia (AusCham) cho biết, các thành viên của tổ chức này đã có báo cáo về khó khăn trong việc tìm kiếm lao động có trình độ, sự chênh lệch giữa cung và cầu trên thị trường lao động đã tăng đáng kể trong năm qua và ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực. Vietnamwork từng báo cáo rằng, trong năm 2007, cầu lao động đã tăng lên 100%, trong khi đó cung chỉ tăng khoảng 60%. Điều này đặc biệt đúng đối với trường hợp lao động kỹ thuật, chuyên nghiệp và quản lý có trình độ mà phần lớn thành viên của AusCham đang có nhu cầu.
Thách thức của thị trường lao động được nhìn nhận là kết quả của sự phát triển tích cực của nền kinh tế Việt Nam và sự gia tăng mạnh mẽ của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hệ quả là chi phí tiền lương tăng cao (mức tăng lương trung bình tính tới cuối năm 2007 được Navigos Group ước tính là 12%) và mức độ nhân viên bỏ việc tăng cao là điều khá phổ biến ở nhiều ngành công nghiệp. Tuy vậy, thách thức của thị trường lao động hôm nay cũng bộc lộ sự kém hiệu quả trong các nỗ lực cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo. Cộng đồng doanh nghiệp thấy rằng, chỉ có một số ít sinh viên tốt nghiệp đại học của Việt Nam có đủ các kỹ năng cần thiết để tham gia vào lực lượng lao động mà không cần phải đào tạo thêm. Sự thiên lệch vào đào tạo lý thuyết, không có sự tham vấn của các ngành kinh tế và không chú trọng vào kỹ năng phân tích làm cho đa số sinh viên tốt nghiệp cần phải đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung sau khi ra trường.
Các chuyên gia nói rằng, sự mất cân đối trong thị trường lao động chỉ là phần nổi rất nhỏ của tảng băng ngầm, điều này thể hiện sự suy giảm ưu thế cạnh tranh của Việt Nam trên khía cạnh nguồn lao động dồi dào, tương đối rẻ và có trình độ. Thực tế là tính hấp dẫn của Việt Nam như là một điểm đến của đầu tư tại châu Á sẽ ngày càng bị nghi ngờ khi mà chi phí lao động bắt đầu vượt qua năng suất lao động và chi phí tuyển dụng, đào tạo tăng cao.
Các thách thức của thị trường lao động chưa được giải quyết cũng đặt ra câu hỏi về khả năng Việt Nam có thể đáp ứng được sự mở rộng đáng kể hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực như ngành chế tạo cao cấp và công nghệ cao cũng như các dịch vụ tài chính và dịch vụ khác. Đây là vấn đề dài hạn, khó có thể giải quyết nhanh và điều quan trọng là phải đưa ra được các chiến lược dài hạn để nâng cao tính cạnh tranh về nguồn nhân lực: đầu tư vào giáo dục căn bản là chưa đủ mà phải hướng vào nội dung có tính thực nghiệm cao.
Đề cập đến chương trình đào tạo thay thế cho đại học, ông Paul Fairhead cho rằng, việc đào tạo dạy nghề có liên hệ chặt chẽ với các ngành kinh tế vẫn còn là điều mới mẻ ở Việt Nam và chưa có được sự nhận thức cao trong cộng đồng. Mặc dù kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 công nhận tầm quan trọng của đào tạo nghề trong việc tăng cường nguồn lao động có tay nghề, cải thiện chất lượng nhằm gia tăng cạnh tranh về nguồn nhân lực của đất nước nhưng đến nay vẫn chưa có được các bước cụ thể để đạt được mục đích này.