Dư luận vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về mức khống chế cho vay đầu tư chứng khoán 3% đối với các NH, xin ông cho biết quan điểm về vấn đề này?
Điều đầu tiên phải khẳng định là việc kiểm soát dư nợ tín dụng đối với các hoạt động cho vay chứng khoán là cần thiết. TTCK phát triển nhanh trong mối quan hệ liên thông với các thị trường tín dụng và nhà đất... Sự biến động của TTCK có thể có tác động lớn và trực tiếp đến các thị trường còn lại. Nếu có rủi ro ở TTCK thì có thể NH và thị trường đất đai cũng bị ảnh hưởng, và khi ảnh hưởng đủ lớn thì có thể gây nên khủng hoảng cho nền kinh tế. Cộng thêm vào bối cảnh đó là lo ngại của Nhà nước về lạm phát. 6 tháng đầu năm, mức độ lạm phát cao hơn nhiều so với dự đoán. Từ những yếu tố đó, việc NHNN đưa ra một biện pháp nào đó là cần thiết.
Một biện pháp can thiệp thích hợp là cần thiết, thế nhưng quy định khống chế nói trên lại không được nhiều người đồng tình?
Cái mà người ta không đồng ý, theo tôi là cách làm của NHNN. Rất khó để luận giải về cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn để đưa ra con số 3% này. Nhưng điều này cũng chưa quan trọng bằng mục đích của bản thân việc điều tiết. Rõ ràng, mục đích của hoạt động điều tiết là đảm bảo an toàn cho hệ thống NH. Để làm việc này, NHNN đã có sẵn công cụ. Theo tôi hiểu, các NH đang áp dụng tiêu chuẩn
Đơn giản vậy nhưng theo ông, vì sao NHNN không thực hiện theo cách này?
Theo tôi, do hệ thống thông tin quá kém. NHNN không kiểm soát được mức độ an toàn vốn của các tổ chức tín dụng nên đành phải dùng biện pháp rất hành chính như vậy. Sử dụng các biện pháp hành chính thì dễ cho NHNN nhưng làm khó cho các NH thương mại, làm khó cho nền kinh tế vì can thiệp quá sâu vào hoạt động nội bộ và trói chân trói tay, làm cho các NH mất đi sự linh hoạt của mình. Có thể nói, NHNN đã sử dụng một liều thuốc mạnh cho bệnh cảm xoàng.
Như tôi đã nói trên, mục đích cuối cùng là an toàn. Vì vậy, nên quy định tỷ lệ là bao nhiêu. Ở đây có 2 sự lựa chọn. Thứ nhất, giải bài toán ngược. Với cơ cấu dư nợ như thế này, với cách các NH thương mại cho vay như thế này thì đến hiện nay là bao nhiêu phần trăm? Ở từng đó phần trăm thì mức độ rủi ro như thế nào?
Các biện pháp can thiệp hành chính kiểu như vậy sẽ gây ảnh hưởng như thế nào đối với sự phát triển kinh tế nói chung, thưa ông?
Một trong những yêu cầu rất quan trọng khi chúng ta gia nhập WTO là giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Đây cũng là yêu cầu nội tại của nền kinh tế, tức là tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định, có khả năng dự đoán được và minh bạch. Nếu không có khả năng dự đoán được các dự lệnh của Nhà nước hoặc các dự lệnh đưa ra quá ngắn như kiểu 15 ngày (15 ngày có hiệu lực sau khi đăng công báo) sẽ khiến doanh nghiệp (DN) không thích nghi được với điều kiện, quy định, cơ chế mới. Đứng từ góc độ quản lý vĩ mô, sẽ làm cho môi trường không ổn định. Đứng từ góc độ của những người chịu tác động trực tiếp là các NH, DN... sẽ hết sức bị động và khó thích nghi. Chúng ta hay nói Việt