Khối ngoại bán ròng, không hẳn vốn nước ngoài đảo chiều

Việc nhà đầu tư ngoại bán ròng là một thực tế được phản ánh trên sổ sách thống kê. Tuy nhiên, chỉ từ việc bán ròng này thì khó có thể khẳng định rằng đã và đang có hiện tượng đảo chiều vốn nước ngoài, hoặc nghiêm trọng hơn, là chảy máu ngoại tệ.
Từ lúc HDB niêm yết, khối ngoại liên tục mua ròng, tỉ lệ nước ngoài sở hữu đã tăng thêm tới 6% sau hơn 4 tháng chào sàn. Từ lúc HDB niêm yết, khối ngoại liên tục mua ròng, tỉ lệ nước ngoài sở hữu đã tăng thêm tới 6% sau hơn 4 tháng chào sàn.

Thống kê trên thị trường chứng khoán cho thấy từ tháng 2/2018 đến nay nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng hơn 10.000 tỷ đồng, trái ngược hoàn toàn với tình trạng mua ròng mạnh diễn ra trong tháng 1/2018. Điều này là một trong những lý do khiến chỉ số VN-Index giảm mạnh, xóa đi toàn bộ thành quả tăng điểm từ đầu năm đến nay.

Tất nhiên là khi nhà đầu tư ngoại bán ròng và ở mức lớn, rủi ro hiện hữu đi kèm với hiện tượng này là tình trạng vốn ngoại tệ đảo chiều, chảy ngược ra nước ngoài, thay vì chảy ròng vào nền kinh tế như khi mọi chuyện vẫn đang tốt đẹp.

Khi một quốc gia phải chứng kiến dòng vốn nước ngoài chảy ngược ra khỏi biên giới của mình ở quy mô lớn và kéo dài (không phải chỉ là hiện tượng nhất thời, ngắn hạn) thì họ cần phải chuẩn bị đối mặt với những hậu quả như tỷ giá tăng (nội tệ mất giá), lạm phát tăng, ngân hàng nhận được ít tiền gửi hơn do đó cũng phải cắt giảm cho vay, dẫn đến làm giảm đầu tư và, do đó, giảm tăng trưởng GDP thực.

Khả năng trả nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp cũng trở nên khó khăn hơn, ở góc độ là nếu nguồn thu để trả nợ phụ thuộc phần lớn vào thị trường nội địa và/hoặc bằng nội tệ, họ sẽ phải mất nhiều nội tệ hơn cho cùng một khoản trả nợ bằng ngoại tệ.

Nếu chỉ từ việc bán ròng của nhà đầu tư ngoại thì khó có thể khẳng định rằng đã và đang có hiện tượng đảo chiều vốn nước ngoài, hoặc nghiêm trọng hơn, là chảy máu ngoại tệ   

Nguy hại không kém là sự sụt giảm lòng tin của người tiêu dùng vào nội tệ. Khi họ thấy tài sản bằng nội tệ của mình có khả năng mất giá mạnh (do nội tệ mất giá), họ sẽ tự bảo vệ mình bằng cách chuyển các tài sản của mình ra ngoại tệ hoặc những tài sản khác không niêm yết bằng nội tệ, và/hoặc dịch chuyển các tài sản này ra nước ngoài. Điều này càng làm tăng vòng xoáy chảy máu ngoại tệ mất giá nội tệ sụt giảm niềm tin chảy máu ngoại tệ (capital flight).

Trở lại với trường hợp của Việt Nam. Việc nhà đầu tư ngoại bán ròng là một thực tế được phản ánh trên sổ sách thống kê. Tuy nhiên, chỉ từ việc bán ròng này thì khó có thể khẳng định rằng đã và đang có hiện tượng đảo chiều vốn nước ngoài, hoặc nghiêm trọng hơn, là chảy máu ngoại tệ. Có một số yếu tố không ủng hộ quan ngại rằng đang có hiện tượng đảo chiều vốn nước ngoài.

Thứ nhất, theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đã đạt mức 1,89 tỷ USD trong quý I năm nay, tăng 121,6% so với cùng kỳ năm 2017.

Như vậy, nếu đã có một sự đảo chiều của vốn ngoại thì sự đảo chiều này chỉ mới diễn ra gần đây, và phải ở quy mô rất lớn, hàng tỷ USD, trung hòa toàn bộ lượng vốn FII đã đổ vào trong quý I để có thể sinh ra tình trạng đảo chiều vốn ngoại (đổ ra ròng) như dư luận đang lo ngại. Tuy nhiên, khả năng đảo chiều này cũng khó xảy ra nếu xét đến yếu tố thứ hai.

Đó là, dù nhà đầu tư ngoại đã bán ròng (từ tháng 2), nhưng lượng vốn thu được từ việc bán ròng này không nhất thiết được chuyển hết thành ngoại tệ, và cũng không nhất thiết được chuyển ra nước ngoài.

Rất có thể nhà đầu tư ngoại vẫn đang nắm giữ một phần vốn từ bán ròng này ở trong các tài khoản ngân hàng tại Việt Nam, bằng tiền đồng (để, ví dụ, chờ đợi cơ hội đầu tư mới). Bởi vậy, sự bán ròng của khối ngoại nhìn chung đã không gây ra sự đảo chiều vốn ngoại ở Việt Nam trong thời gian qua.

Tất nhiên là không thể loại trừ trường hợp có một số nhà đầu tư ngoại đã chuyển hóa số vốn thu hồi thành ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài. Nhưng nếu điều này diễn ra ở quy mô đáng kể thì nó sẽ được phản ánh ngay vào yếu tố thứ ba, đó là tỷ giá.

Thực tế, tỷ giá tiền đồng/đô la Mỹ chỉ tăng đáng kể vào hạ tuần tháng 3 nhưng lại dịu đi sau đó, và mới chỉ “bùng lên” từ giữa tuần trước, tăng tổng cộng khoảng 90 đồng cho đến ngày 29-5. Như vậy, dù được cho là tăng mạnh, nhưng cũng chỉ ở mức 0,85% từ đầu năm đến nay.

Cũng có thể có ý kiến cho rằng tỷ giá niêm yết ở ngân hàng (và tỷ giá trung tâm của Ngân hàng Nhà nước) không phản ánh đúng tình trạng căng thẳng ngoại tệ ở Việt Nam, nên không thể căn cứ vào sự ổn định tương đối về tỷ giá trong thời gian qua để phủ nhận khả năng đã có sự đảo chiều vốn ngoại tệ.

Tuy vậy, ít nhất thì sự “lình xình” của tỷ giá tiền đồng/đô la Mỹ trên thị trường tự do (và không quá cách biệt với tỷ giá niêm yết trong ngân hàng thương mại) cũng là một hàn thử biểu cho thấy không có sự căng thẳng về cung cầu đô la Mỹ tại Việt Nam cho đến hiện tại (với giả thiết là đã có hàng tỷ USD được nhà đầu tư ngoại mua và chuyển ra nước ngoài).

Và cũng sẽ có ý kiến cho rằng sự đảo chiều vốn nước ngoài từ FII đã được “che lấp” bởi sự tiếp tục đổ vào (ròng) của luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Do đó, ở góc độ này, Việt Nam đã “may mắn” tránh được hậu quả của sự chảy máu ngoại tệ.

Khả năng có sự bù đắp này cũng có thể là sự thật, nhưng lý do chủ yếu nằm ở sự khác biệt về bản chất giữa FDI và FII, khi FDI là dòng vốn có tính chất dài hạn, không biến động ngắn hạn, nhất thời như FII. Và suy cho cùng, xét trên góc độ ổn định vĩ mô, FDI hay FII không quan trọng bằng, về tổng thể, lượng ngoại tệ đang có ở Việt Nam không bị suy giảm đi (thậm chí tăng lên) ở mọi thời điểm.


Theo Thesaigontimes

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục