Hướng tới tài chính bền vững

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Năm 2025, ngành tài chính Việt Nam đang đứng trước một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống tài chính quốc gia.
Hiện tại, nền tảng tài chính của các ngân hàng đã cải thiện đáng kể so với 10 năm trước. Hiện tại, nền tảng tài chính của các ngân hàng đã cải thiện đáng kể so với 10 năm trước.

Nợ xấu: Xu hướng tăng chưa thể sớm dừng

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho biết, nợ xấu nội bảng toàn hệ thống tăng từ 778.000 tỷ đồng cuối năm 2024 (tương đương 4,98% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế) lên 833.000 tỷ đồng vào cuối tháng 2/2025 (tương ứng 5,29% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế).

Còn theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng MBV, GPBank, VCBNeo, DongA Bank, SCB có tỷ lệ nợ xấu lần lượt là 7,18%; 15,87%; 43,76%; 46,1%; 98,5%.

Trên cơ sở số liệu này, Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) ước tính nợ xấu tại các tổ chức tín dụng yếu kém vào khoảng 537.000 tỷ đồng, chiếm 65% nợ xấu nội bảng của hệ thống ngân hàng và tập trung chủ yếu tại SCB. Nếu loại trừ nhóm ngân hàng này, nợ xấu còn lại của hệ thống ước tính khoảng 295.000 tỷ đồng.

Báo cáo tài chính của 27 ngân hàng niêm yết cho thấy, nợ xấu nội bảng từ các khoản cho vay khách hàng tăng hơn 37.000 tỷ đồng trong quý I/2025, sau khi đã giảm hơn 25.000 tỷ đồng vào quý trước đó, tương ứng mức tăng 16%.

Qua đó, quy mô nợ xấu nội bảng tính cuối quý tăng lên hơn 265.000 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ nợ xấu 2,16%. Đáng chú ý, nợ nhóm 2 tăng nhẹ 7.000 tỷ đồng trong quý I/2025, chấm dứt xu hướng giảm trong 3 quý trước đó.

Theo VDSC, nếu giả định phần lớn nợ xấu phát sinh trong quý I/2025 bắt nguồn từ việc chuyển nhóm nợ, quy mô nợ nhóm 2 phát sinh thêm trong kỳ ước tính có thể ở mức cao hơn 70.000 tỷ đồng, tương đương 0,6% quy mô nợ nhóm 1 cuối năm trước.

Với diễn biến này, rủi ro nợ xấu tiếp tục tăng mạnh trong quý II/2025 là khá cao, nếu như các khoản nợ nhóm 2 này không được xử lý kịp thời.

Ông Nguyễn Quốc Hùng - Phó chủ tịch kiêm Tổng Thư ký VNBA cho biết, trong thời gian qua, ngành ngân hàng đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như cơ cấu lại nợ, giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ… Điều này là cần thiết, nhưng đồng thời cũng tạo ra hệ lụy.

Hiện tại, tiềm ẩn nợ xấu trong hệ thống vẫn ở mức cao. Dù không áp dụng Thông tư số 02/2023/TT-NHNN, các tổ chức tín dụng vẫn phải trích lập dự phòng và xử lý rủi ro bằng các nghiệp vụ chuyên môn.

“Theo ước tính sơ bộ, tổng nợ xấu (bao gồm nợ nội bảng, nợ bán cho AMC và nợ tiềm ẩn) hiện đã vượt trên 5% tổng dư nợ nền kinh tế. Cùng với dư nợ của các khách hàng có khả năng bị ảnh hưởng bởi chính sách thuế quan đối ứng cũng sẽ khiến cho xu hướng tăng của nợ xấu chưa thể sớm dừng lại”, ông Hùng nói.

Bà Alka Anbarasu - Giám đốc điều hành cấp cao, Khối Tổ chức tài chính, Moody’s Ratings cho biết, Moody’s duy trì đánh giá triển vọng ổn định đối với hầu hết các lĩnh vực trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, ngoại trừ rủi ro liên quan đến chất lượng tài sản, đặc biệt từ lĩnh vực bất động sản.

“Trong 2 năm qua, chúng tôi bày tỏ một số quan ngại về lợi nhuận, do lo ngại rằng sự suy giảm chất lượng tài sản có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. Dù vậy, chúng tôi ghi nhận rằng, các ngân hàng đã tích lũy được một số bộ đệm dự phòng nhất định, qua đó hỗ trợ duy trì sự ổn định về lợi nhuận trong ngắn hạn”, bà Alka Anbarasu nói.

Dẫu vậy, đại diện Moody's cũng lưu ý rằng, mức độ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng đã suy giảm khi một số tổ chức tín dụng sử dụng phần dự phòng rủi ro đã trích lập để xử lý các khoản nợ xấu hiện hữu. Điều này đồng nghĩa với việc dư địa còn lại để hấp thụ thêm các tổn thất về chất lượng tài sản đang ở mức tương đối hạn chế.

Báo cáo tài chính quý I/2025 của các ngân hàng cho thấy, chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cụ thể là gần 29.000 tỷ đồng, chỉ chiếm 45% nợ xấu hình thành ròng.

Do đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) cuối quý I/2025 của ngành giảm xuống 92% từ mức 110% của quý liền trước.

Trong đó, tỷ lệ LLR của nhóm ngân hàng có vốn nhà nước chi phối đạt 132% (giảm so với mức 167% của quý IV/2024), nhóm ngân hàng thương mại cổ phần đạt 56% (giảm so với mức 62% của quý IV/2024).

Cùng với đó, cơ cấu các nhóm nợ xấu của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần quy mô lớn và trung bình đang cho thấy tỷ trọng nợ nhóm 2,3 và 4 còn khá lớn (chưa được trích lập dự phòng 100% sau khi chiết khấu giá trị tài sản bảo đảm) so với nợ nhóm 5.

“Do đó, chi phí dự phòng ở nhóm ngân hàng thương mại cổ phần sẽ tiếp tục tăng so với quý I/2025 để tiếp tục trích lập cho nợ xấu nội bảng hiện hữu và kiểm soát tỷ lệ nợ xấu sau khi chịu ảnh hưởng của nợ xấu tiềm ẩn phát sinh từ nợ nhóm 2 trong quý II này”, VDSC nhận định.

Xếp hạng tín nhiệm: Cầu nối dòng chảy vốn

Theo ông Douglas Jackson - Giám đốc điều hành, Trưởng Khu vực Việt Nam và Thái Lan tại Alvarez & Marsal, năm 2025, ngành tài chính Việt Nam đang đứng trước một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống tài chính quốc gia.

Sau nhiều năm liên tục tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, hệ thống ngân hàng và thị trường vốn giờ đây phải đối mặt với hàng loạt thách thức lớn và phức tạp hơn bao giờ hết.

Một trong các vấn đề nổi cộm đó là tỷ lệ nợ xấu gia tăng. Đáng chú ý, tỷ lệ nợ xấu chính thức được công bố nhiều lúc chỉ phản ánh một phần nhỏ thực trạng căng thẳng tài chính thực sự.

Nguyên nhân bởi các ngân hàng thường sử dụng các biện pháp tái cấu trúc nợ mang tính hình thức như chuyển giao các khoản nợ xấu cho các công ty quản lý tài sản liên quan, hoặc thực hiện các giao dịch đối ứng nợ xấu giữa các ngân hàng… nhằm che giấu tình trạng tài chính yếu kém.

“Những thực tiễn này không những làm sai lệch báo cáo tài chính chính thức, mà còn tiếp tục làm xói mòn thêm niềm tin của nhà đầu tư vào ngành ngân hàng nói chung”, ông Douglas Jackson nói.

Dẫu vậy, bà Alka Anbarasu cho biết, Moody’s ghi nhận một số tín hiệu cải thiện tích cực trong lĩnh vực bất động sản nhờ các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, sự khởi sắc trong hoạt động bán hàng, cũng như dòng vốn đầu tư nước ngoài gia tăng trong thời gian gần đây. Những yếu tố này được kỳ vọng sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro đối với chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng thời gian tới. Theo đó, triển vọng ngành ngân hàng Việt Nam vẫn được Moody’s đánh giá ở mức ổn định.

Ông Phan Duy Hưng - CFA, Giám đốc, chuyên gia phân tích cao cấp của VIS Rating chia sẻ, Công ty đang thực hiện đánh giá tín nhiệm cho khoảng 1.500 doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp niêm yết và chưa niêm yết. Trong đó, khoảng 500 doanh nghiệp niêm yết được đại diện để phản ánh bức tranh phân bổ tín nhiệm theo ngành và nhóm ngân hàng thường có mức xếp hạng cao nhất.

“Khi áp dụng phương pháp xếp hạng tín nhiệm của VIS Rating cho khoảng 30 ngân hàng tại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy phần lớn đều đạt mức A trở lên - phản ánh nền tảng tài chính được cải thiện đáng kể so với 10 năm trước”, ông Hưng nói, đồng thời cho biết thêm, việc các ngân hàng có mức xếp hạng cao hơn dù còn đối mặt với nhiều vấn đề xuất phát từ các lý do: Năng lực nội tại của các ngân hàng đã được cải thiện đáng kể trong 15 năm qua, đặc biệt là mảng bán lẻ, giúp nâng cao khả năng sinh lời và cải thiện hệ số an toàn vốn; khung pháp lý về quản trị rủi ro ngày càng hoàn thiện và tiệm cận với chuẩn mực quốc tế; ngành ngân hàng luôn nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ…

“Chính sách hỗ trợ từ Nhà nước là một yếu tố then chốt giúp ngành ngân hàng duy trì mức tín nhiệm cao, do vai trò đặc biệt của ngành này trong việc dẫn vốn cho nền kinh tế. Trong thời gian tới, các khung pháp lý cho tổ chức tín dụng sẽ tiếp tục được hoàn thiện nhằm tăng khả năng ứng phó với rủi ro”, ông Hưng nhấn mạnh.

Cũng theo ông Hưng, mặc dù nợ xấu là vấn đề cần theo dõi, đặc biệt liên quan đến cho vay mua nhà trong bối cảnh thị trường bất động sản còn khó khăn, nhưng khả năng sinh lời của các ngân hàng vẫn trong xu hướng tăng, phản ánh hiệu quả trong hoạt động kinh doanh lõi.

Bà Maria Lee - Giám đốc điều hành Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Moody's Rating nhấn mạnh, trong quá trình hội nhập sâu rộng vào thị trường tài chính toàn cầu và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng, Việt Nam ngày càng cần đến những công cụ hiệu quả để tăng cường minh bạch, củng cố niềm tin của nhà đầu tư và cải thiện khả năng tiếp cận nguồn vốn. Do đó, xếp hạng tín nhiệm chính là cầu nối đưa Việt Nam tiến gần hơn với dòng chảy vốn toàn cầu.

Hồng Dung

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục