HSBC: Tìm điểm cân bằng mới, Việt Nam hướng tới mức tăng trưởng kỷ lục

(ĐTCK) 2025 tiếp tục là một năm Việt Nam đạt được hầu hết những mục tiêu kinh tế vĩ mô đặt ra từ đầu năm - từ tăng trưởng kinh tế, đến kiểm soát lạm phát, cùng hàng loạt các chỉ tiêu khác.

Bức tranh không chỉ có riêng màu hồng

Theo ông Vũ Bình Minh, CFA, Giám đốc Kinh doanh vốn và tiền tệ, Khối Thị trường vốn và Dịch vụ Chứng khoán, HSBC Việt Nam, bức tranh kinh tế vĩ mô có thể chia làm hai giai đoạn chính, với câu chuyện thuế quan là bước ngoặt chính. Trước đó, Việt Nam khởi đầu 2025 trong sự lạc quan với rất nhiều kỳ vọng sẽ nối tiếp thành công của năm 2024. Tuy nhiên, thuế quan đã trở thành chủ đề được bàn tán nhiều nhất trong quý I khi Việt Nam, quốc gia có thặng dư thương mại song phương lớn thứ ba với Mỹ, được xem là nước có rủi ro thuế quan cao nhất trong ASEAN.

Sau nhiều vòng đàm phán, Việt Nam hiện đang ở cùng nhóm với các nước đang phát triển khác trong ASEAN với mức thuế 19-20%. Mặc dù vậy kết quả của các vòng đàm phán còn chưa ngã ngũ, nhưng một thực tế là tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vẫn đã và đang cho thấy những con số ấn tượng.

“Tại thời điểm công bố mức thuế quan đặc biệt cao mà chính quyền Tổng thống Trump áp dụng cho Việt Nam, đã có rất nhiều hoài nghi về việc Việt Nam liệu có đạt được những mục tiêu kinh tế đầy tham vọng mà Chính phủ đặt ra từ đầu năm. Tuy nhiên, các dữ liệu kinh tế vĩ mô đã cho thấy đà tăng trưởng GDP đầy ấn tượng trong quý II và III năm nay, với quý sau cao hơn quý trước”, ông Bình Minh nói.

Ông Vũ Bình Minh, CFA, Giám đốc Kinh doanh vốn và tiền tệ, Khối Thị trường vốn và Dịch vụ Chứng khoán, HSBC Việt Nam

Bên cạnh đó, bức tranh vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (FDI) cũng rất tươi sáng. Mặc dù số vốn đăng ký mới giảm khoảng 8% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng vốn đăng ký điều chỉnh và vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần tăng lần lượt 17,0% và 50,7%, đưa tổng vốn FDI vào Việt Nam đạt 33,69 tỷ USD, là mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Tương tự, vốn FDI thực hiện tại Việt Nam 11 tháng năm 2025 cũng đạt mức cao nhất của cùng kỳ trong 5 năm qua, ước đạt 23,6 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước.

“Điều thú vị là, cơ cấu FDI cho thấy một bức tranh về sự thay đổi cơ cấu nhà đầu tư, khi FDI từ Trung Quốc và Mỹ tăng đáng kể góp phần bù đắp cho sự sụt giảm từ các nhóm quốc gia khác”, ông Bình Minh nhấn mạnh.

Với thị trường tài chính - tiền tệ, ông Bình Minh cho biết, năm 2025 đã trải qua nhiều biến động, với các cơn gió ngược. Mặt bằng lãi suất liên ngân hàng đã được duy trì ổn định trong phần lớn thời gian của nửa đầu năm nay nhờ vào Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều hành chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt, ổn định nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và kích thích kinh tế trong bối cảnh Việt Nam chịu nhiều rủi ro về thuế quan.

Theo chu kỳ mùa vụ, tiến gần tới những tháng cuối năm, mặt bằng lãi suất VNĐ đã chứng kiến áp lực tăng cao và nhanh, tiệm cận mức cao nhất trong vòng 3 năm trở lại đây. Tính đến ngày 21/11, tăng trưởng dư nợ tín dụng và huy động vốn lần lượt ở mức tăng 16,15% và 12% so với đầu năm.

Đáng chú ý, một mặt NHNN vẫn tích cực hỗ trợ thanh khoản thị trường, thể hiện qua lượng cho vay cầm cố giấy tờ có giá (OMO) chạm mức kỷ lục gần 370 nghìn tỷ đồng, song song với việc bắt đầu triển khai nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ với các ngân hàng thương mại. Một mặt khác, NHNN đã nâng lãi suất OMO lên mức 4,5%/năm từ mức 4%/năm vốn được duy trì xuyên suốt từ tháng 9/2024.

Bên cạnh đó, lạm phát cũng là một vấn đề đáng chú ý. Đà tăng trưởng lạm phát chung đã tăng tốc lên 0,5% so với tháng trước trong tháng 11, tương đương với mức tăng 3,58% so với cùng kỳ năm trước, với nguyên nhân chính là do giá thực phẩm tăng cao sau những đợt bão lũ gần đây.

Điểm tựa cho 2026

Đứng trước những yếu tố co - kéo, theo ông Bình Minh, NHNN sẽ tiếp tục giữ ổn định mức lãi suất điều hành. Trong bối cảnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm sau đề ra ở mức cao, trong khi lạm phát được duy trì ở dưới mục tiêu, điều này cho phép mặt bằng lãi suất bình quân liên ngân hàng VNĐ quay về xu hướng ổn định hơn trong thời gian tới. Lãi suất điều hành do đó nhiều khả năng không cần thay đổi nếu các chỉ số kinh tế chính được giữ vững.

Trong khi đó, hoạt động OMO cũng như các công cụ chính sách mới như hoán đổi tiền tệ tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong dẫn dắt thị trường tiền tệ, giúp kiểm soát thanh khoản và định hướng kỳ vọng lãi suất. Đây được đánh giá là điểm tích cực, phản ánh bước chuyển sang điều hành thị trường mở hiệu quả, linh hoạt hơn.

Về tỷ giá, cặp tỷ giá USD-VND cũng trải qua một năm 2025 đầy biến động. Chỉ số USD giảm hơn 9%, và trong bối cảnh Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (Fed) quay trở lại chu kỳ cắt giảm lãi suất điều hành, VNĐ đã mất giá khoảng 3,5% so với USD tính chung từ đầu năm. Điều này đặt ra rất nhiều thách thức cho cả nhà đầu tư, những thành viên tham gia thị trường cũng như cơ quan điều hành.

Mặc dù tỷ giá USD-VND tăng trong phần lớn năm 2025, nhưng đã ổn định hơn kể từ tháng 9, nhờ chính sách điều hành ngoại hối chủ động, linh hoạt của NHNN. Cụ thể, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá trung tâm theo xu hướng giảm, giúp góp phần định hướng xu hướng và tâm lý thị trường, đồng thời kết hợp bán hợp đồng kỳ hạn cho các ngân hàng thương mại nhằm đảm bảo thanh khoản thị trường, đáp ứng nhu cầu ngoại hối hợp pháp của các tổ chức và doanh nghiệp.

“Căn cứ vào kết quả đó, chúng ta có lý do để kỳ vọng tỷ giá tiếp tục duy trì xu hướng ổn định cho phần còn lại của năm 2025. Nhìn sang 2026, nhu cầu ngoại hối mang tính cơ cấu vẫn sẽ hiện diện, tuy nhiên mức độ tăng của tỷ giá USD-VND dự kiến sẽ nhỏ hơn so với hai năm gần đây, trong bối cảnh khác biệt về chính sách điều hành dần thu hẹp khi Fed gần như loại bỏ khả năng tăng lãi suất điều hành vào năm sau, cộng thêm giai đoạn bất ổn về thuế quan đã qua”, ông Bình Minh dự báo.

Mặc dù các diễn biến của năm 2026 là rất khó dự đoán tại thời điểm này, nhưng các chỉ số như PMI cũng góp phần hé lộ một số triển vọng đáng khích lệ. Chỉ số PMI tổng thể vẫn duy trì ở mức mở rộng 53,8 trong tháng 11. Trong thời gian qua, Việt Nam đã tập trung đẩy mạnh đầu tư công, đặc biệt vào cơ sở hạ tầng trọng điểm. Chi tiêu công cho cơ sở hạ tầng chiếm khoảng 6 - 7% GDP, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, đã và đang là động lực quan trọng hỗ trợ đà tăng trưởng kinh tế.

“Điều này đặc biệt ý nghĩa trong bối cảnh dư địa cho chính sách tiền tệ hạn chế, ở phía ngược lại, dư địa về chính sách tài khoá còn tương đối rộng mở khi tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam là thấp nhất trong số các nước ASEAN”, ông Bình Minh nhận định.

Về triển vọng thương mại, theo ông Bình Minh, đa dạng hóa thương mại đã trở thành một chiến lược quan trọng trong bối cảnh bất ổn về thuế quan từ Mỹ. Mặc dù Mỹ vẫn duy trì là điểm đến xuất khẩu hàng đầu, Việt Nam đang đẩy nhanh nỗ lực theo đuổi các cơ hội thương mại dài hạn. Năm 2024, thương mại của Việt Nam với Khối Liên Minh Châu Âu (EU) tăng 36% so với năm 2019, trở thành đối tác thương mại quan trọng nhất trong ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam đã và đang ký một loạt các hiệp định thương mại, cũng như nâng cấp quan hệ với các quốc gia, cho thấy tiềm năng của việc đa dạng hoá thương mại là rất lớn.

“Chính sách điều hành tiền tệ chủ động, linh hoạt của NHNN tiếp tục sẽ tiếp tục tạo điều kiện cho thị trường vận động trong biên độ ổn định. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, cần tiếp tục chủ động trong hoạt động phòng vệ rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất nhằm đảm bảo kết quả kinh doanh không bị ảnh hưởng. 2026 sẽ tiếp tục là một năm Việt Nam đứng trước nhiều thách thức, nhưng cũng không thiếu những cơ hội. Việc tìm được điểm cân bằng sẽ giúp đưa quốc gia bước vào một kỷ nguyên mới vững mạnh hơn”, ông Bình Minh nói.

Nhuệ Mẫn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục