“Đòn bẩy” tăng cường sự tự tin của phụ nữ trong việc thoát nghèo
Thông tin đưa ra tại Hội thảo Khoa học quốc gia “Tài chính vi mô hỗ trợ phụ nữ nghèo tại Việt Nam” do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Học viện Ngân hàng tổ chức sáng 25/9 cho biết, mặc dù dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam đang không ngừng phát triển về chất lượng, số lượng sản phẩm dịch vụ và quy mô, mạng lưới hoạt động, nhưng theo Ngân hàng Thế giới (năm 2014), Việt Nam nằm trong danh sách 25 quốc gia có 75% dân số không được tiếp cận dịch vụ ngân hàng-tài chính chính thức.
Những người chưa được tiếp cận dịch vụ ngân hàng chủ yếu là do thu nhập thấp và trình độ hiểu biết về các dịch vụ tài chính ngân hàng còn thấp.
Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2016, Việt Nam còn khoảng 2,31 triệu hộ nghèo, chiếm 9,79% hộ dân cư trên cả nước và hơn 1,24 triệu hộ cận nghèo, chiếm 5,27% theo tiêu chuẩn nghèo đa chiều.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nếu như người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ tài chính, họ có thể vượt qua đói nghèo, nhờ đó được tiếp cận với dịch vụ giáo dục và y tế tốt hơn.
Theo các chuyên gia, một trong những giải pháp để thúc đẩy tài chính toàn diện, xóa đói giảm nghèo là việc áp dụng mô hình tài chính vi mô đối với những người nghèo, ít có khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng chính thống.
Quá trình hình thành và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam đã chứng minh đây là một giải pháp hiệu quả, do đó cần được khuyến khích và hỗ trợ để các tổ chức này phát huy hơn nữa vai trò của mình trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam.
Minh chứng cho nhận định này, bà Dương Thị Ngọc Linh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thông tin, thông qua hoạt động đào tạo kiến thức về tài chính, chị em thành viên hiểu rõ quyền lợi của mình và chủ động đề xuất với Tổ chức Tài chính vi mô một thành viên Tình thương (TYM) về việc điều chỉnh sản phẩm, dịch vụ, quy trình, chính sách để phù hợp với nhu cầu của thành viên từng giai đoạn.
Đa phần ý kiến của chị em được TYM lắng nghe và hiện thực hóa bằng nhiều cải tiến trong những năm qua, đem lại thành công của TYM ngày hôm nay.
Cụ thể, qua 26 năm hoạt động, dư nợ vốn toàn TYM đạt trên 1.200 tỷ đồng. 99,99% của hơn 1 triệu món vốn phát ra của TYM được thành viên hoàn trả đúng hạn, nhờ việc lập kế hoạch sử dụng vốn khả thi và thực hiện nghiêm túc kế hoạch kinh doanh, sản xuất. Trên 120.000 thành viên thoát nghèo bền vững.
Với dịch vụ tiết kiệm thuận lợi, cùng những bài học về giáo dục tài chính quản lý cá nhân từ TYM, thành viên đã có ý thức về tiết kiệm, số dư tiết kiệm của thành viên và khách hàng TYM đạt trên 850.000 tỷ đồng, trong đó tiết kiệm tự nguyện góp các món nhỏ hàng ngày của thành viên và tiết kiệm tự nguyện có kỳ hạn chiếm đến 63% tổng dư tiết kiệm của TYM.
Bà Linh cho biết thêm, thành viên TYM từ những người buôn bán, sản xuất nhỏ hoặc đi làm thuê, sau những buổi đào tạo sinh hoạt của TYM đã dần thay đổi ý thức quản lý tài chính cá nhân, tích lũy đủ số vốn, có kế hoạch thành lập những cơ sở sản xuất kinh doanh riêng cho bản thân, nỗ lực phát triển kinh tế trở thành những doanh nhân vi mô.
Đến cuối năm 2017, đã 89 thành viên TYM được nhận Giải thưởng doanh nhân vi mô xuất sắc tiêu biểu, đặc biệt, năm 2011, chị Dương Thị Tuyết, thành viên TYM tại Nam Định đã vinh dự trở thành một trong 6 doanh nhân vi mô trên thế giới được nhận Giải Doanh nhân vi mô toàn cầu với mô hình xưởng đúc đồng mỹ nghệ…
Về phía cơ quan quản lý, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Kim Anh nhận định, thực tiễn cho thấy, với điều kiện vay vốn đơn giản, không cần tài sản thế chấp, cấp và nhận vốn ngay tại nơi người dân sinh sống, tài chính vi mô được xem như một công cụ “đòn bẩy” hữu hiệu nhằm tăng cường sự tự tin của phụ nữ, thúc đẩy họ tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập và thoát nghèo, từ đó khẳng định vai trò và vị thế của họ trong gia đình và xã hội.
“Tuy nhiên, hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như hoạt động khá manh mún, sản phẩm, dịch vụ chưa đa dạng, các chỉ số bền vững hoạt động và tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chưa cao, đặc biệt khuôn khổ pháp lý vẫn còn chưa toàn diện, thống nhất...”, Phó thống đốc Nguyễn Kim Anh cho biết.
Nhưng còn những câu hỏi cần giải đáp
Bà Nguyễn Tuyết Dương, Phó vụ trưởng Vụ Pháp chế, Ngân hàng Nhà nước cho biết, Nghị định 28/2005/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam, Nghị định 165/2007/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều tại Nghị định số 28/2005/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước là cơ sở pháp lý đầu tiên cho hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam.
Đây được xem là những nền tảng ban đầu, quan trọng để các tổ chức tài chính vi mô hướng tới một môi trường hoạt động chuyên nghiệp hơn và hoàn thiện bền vững về thể chế theo thông lệ tốt của quốc tế.
Kể từ khi Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 có hiệu lực, tổ chức tài chính vi mô được công nhận là một tổ chức tín dụng, được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn của NHNN được ban hành sau.
Theo đó, tổ chức tài chính vi mô được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép thành lập và hoạt động như một tổ chức tín dụng, thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, được nhận tiền gửi, cho vay bảo đảm bằng tiết kiệm bắt buộc hoặc bảo lãnh của nhóm khách hàng và các nghiệp vụ khác, nhưng cần phải tuân thủ quy định về điều kiện, thủ tục cấp phép, quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng, và quy định về bảo đảm an toàn của NHNN.
Bên cạnh việc xây dựng khuôn khổ pháp lý cho việc thành lập tổ chức tài chính vi mô mới, Luật Các tổ chức tín dụng cũng tạo cơ chế riêng cho chương trình, dự án tài chính vi mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức phi chính phủ thực hiện theo quy định của Thủ tướng.
Tiếp đó, ngày 06/12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2195/QĐ- TTg về việc “Phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô tại Việt Nam đến năm 2020” với các giải pháp trọng tâm về xây dựng môi trường pháp lý phù hợp với đặc thù của hoạt động tài chính vi mô, nâng cao năng lực hoạch định chính sách và quản lý của cơ quan quản lý nhà nước, nâng cao năng lực của các tổ chức tài chính vi mô, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tài chính vi mô...
Theo bà Nguyễn Tuyết Dương, bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tài chính vi mô đã đặt ra một số câu hỏi.
Thứ nhất, việc xác định hình thức pháp lý bắt buộc của tổ chức tài chính vi mô là công ty trách nhiệm hữu hạn có tạo thuận lợi cho tổ chức tài chính vi mô phát triển và hoạt động hiệu quả ở Việt Nam hay không?
Thứ hai, quy định hiện hành về hoạt động, điều kiện về nguồn vốn và quy định về bảo đảm an toàn của tổ chức tài chính vi mô như thế nào thì hợp lý để vừa đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính và vừa không tạo gánh nặng cho hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam?
“Với những vấn đề đặt ra như trên, thực tế đã đòi hỏi cần phải có một sự tổng kết về khuôn khổ pháp luật cho hoạt động của tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam. Việc hoàn thiện pháp luật cần phải dựa trên nghiên cứu về tác động của hoạt động tài chính vi mô đến sự ổn định của hệ thống tổ chức tài chính và tính chất đặc thù của tài chính vi mô so với các tổ chức tài chính khác”, bà Dương nhận định.