Giai đoạn 2015 - 2020, nền kinh tế Việt Nam có thế và lực thuận lợi nhờ kế thừa thành tựu 30 năm Đổi mới khi những nỗ lực cải cách cơ cấu kinh tế bắt đầu đơm hoa, kết trái. Tuy nhiên, khó khăn cũng chất chồng do nhiều nguyên nhân như xung đột địa chính trị, xung đột thương mại căng thẳng giữa các nước lớn, diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, thiên tai, biến đổi khí hậu... Với sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống chính trị và sự đồng lòng của người dân, doanh nghiệp, kinh tế trong nước đã đạt được nhiều thành tựu.

Những thành tựu đó có sự đóng góp tích cực của hệ thống ngân hàng - mạch máu của nền kinh tế, thể hiện trên 4 nội dung chính. Thứ nhất, hiệu lực, hiệu quả truyền dẫn của chính sách tiền tệ ngày càng nâng cao. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, góp phần kiểm soát lạm phát theo mục tiêu và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững; điều hành tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung vào lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, kiểm soát tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; điều hành giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo cân bằng lợi ích của người đi vay và người gửi tiền; ổn định tỷ giá, giữ vững giá trị đồng Việt Nam; thị trường tiền tệ, ngoại hối và thị trường vàng ổn định, thông suốt.

Thứ hai, tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) và xử lý nợ xấu có bước đột phá. Đến cuối năm 2020, sự ổn định, an toàn của hệ thống TCTD được giữ vững; năng lực tài chính các TCTD được củng cố; chất lượng tín dụng được cải thiện, tỷ lệ nợ xấu duy trì dưới 3%; quy mô hệ thống TCTD tiếp tục tăng; năng lực quản trị, điều hành của TCTD từng bước được nâng cao, tiệm cận với thông lệ quốc tế.

Thứ ba, hệ thống thanh toán được kiểm soát và vận hành an toàn, việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tiến bộ vượt bậc. NHNN đã xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán. Các TCTD đã nghiên cứu, ứng dụng nhiều công nghệ mới, hiện đại như thanh toán trên thiết bị di động, áp dụng xác thực vân tay, sinh trắc, sử dụng mã phản hồi nhanh... Đồng thời, thanh toán ngân hàng được đẩy mạnh đối với các dịch vụ công, góp phần không nhỏ trong việc hạn chế sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế.

Thứ tư, công tác cải cách hành chính giai đoạn 2016 - 2020 tiếp tục được NHNN đặc biệt quan tâm chỉ đạo triển khai quyết liệt, nhờ đó trong 5 năm liên tiếp, NHNN đã được Ban chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ xếp thứ nhất về chỉ số cải cách hành chính (PAR-Index), cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Năm 2020, dịch bệnh Covid-19 lan rộng trên toàn cầu, một cú sốc lớn đối với hoạt động kinh tế - xã hội, gây ra nhiều khó khăn và hệ lụy cho các doanh nghiệp và các quốc gia.

Theo đó, NHNN đã yêu cầu các TCTD rà soát, đánh giá mức độ ảnh hưởng của dịch bệnh đối với khách hàng vay vốn, xây dựng chương trình, kịch bản hành động của ngân hàng bám sát với thực tế để tháo gỡ khó khăn cho khách hàng; ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 13/3/2020, tạo cơ sở pháp lý cho các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ, giúp người dân và doanh nghiệp giảm áp lực trả nợ để tập trung vốn cho sản xuất - kinh doanh; ban hành Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 31/3/2020 chỉ đạo các TCTD tăng cường triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.

Bên cạnh đó, NHNN ban hành Thông tư và các văn bản hướng dẫn thực hiện cho vay tái cấp vốn với lãi suất 0%, số tiền 16.000 tỷ đồng từ NHNN để Ngân hàng Chính sách xã hội cho người sử dụng lao động gặp khó khăn về tài chính vay trả lương cho người lao động bị ngừng việc do ảnh hưởng của dịch với lãi suất 0% theo tinh thần Nghị quyết 42 của Chính phủ và Quyết định 15 của Thủ tướng Chính phủ.

Đồng thời, NHNN chỉ đạo các TCTD tập trung mọi nguồn lực, đẩy mạnh cải cách quy trình thủ tục nội bộ, rút ngắn thời gian xét duyệt hồ sơ vay vốn nhằm nâng cao khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng. Kịp thời điều chỉnh tăng mức tăng trưởng tín dụng của các TCTD hoạt động hiệu quả, có điều kiện mở rộng tín dụng lành mạnh vào các lĩnh vực phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.

Ngoài ra, Ban lãnh đạo NHNN đã phối hợp với lãnh đạo UBND các tỉnh, thành phố tổ chức gần 20 hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp trên tất cả 6 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Mục tiêu nhằm lắng nghe ý kiến phản ánh của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tiếp cận chính sách của NHNN.

Thực tế cho thấy, sự vào cuộc sớm, chủ động và quyết liệt của ngành ngân hàng đã mang lại những kết quả tích cực.

Trong bối cảnh tình hình thế giới có những thách thức, biến động khó lường, ngành ngân hàng đã chuẩn bị tâm thế sẵn sàng, chủ động vượt qua mọi khó khăn với tinh thần trách nhiệm cao để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngành ngân hàng kiên định mục tiêu mà Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đã đặt ra. Theo đó, toàn ngành sẽ tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật ngân hàng, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thuận lợi, rõ ràng cho công tác điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, phù hợp với các quy luật của kinh tế thị trường, yêu cầu phát triển kinh tế và thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập cũng như xu hướng phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Hai là, kiện toàn tổ chức bộ máy hoạt động của NHNN theo hướng tinh gọn, hiệu lực hiệu quả, phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; thực hiện quyết liệt công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao hệ số tín nhiệm và niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào cơ chế, chính sách và hoạt động của ngành ngân hàng.

Ba là, bám sát diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế để sử dụng linh hoạt các công cụ nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả huy động và phân bổ nguồn vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Điều hành chính sách tín dụng theo hướng tập trung vào lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; lồng ghép các nội dung về phát triển bền vững, biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh trong các chương trình, dự án tín dụng.

Bốn là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng, đảm bảo giữ vững an toàn hệ thống; tăng cường ứng dụng công nghệ và chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công tác thanh tra, giám sát ngân hàng.

Năm là, đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu; nâng cao năng lực cạnh tranh cả về năng lực tài chính và quản trị, hướng tới chuẩn mực, thông lệ quốc tế; tăng cường tính minh bạch và tuân thủ, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của các TCTD.

Sáu là, tập trung xây dựng Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2021 - 2025 phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển của hoạt động ngân hàng số trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0; tiếp tục xây dựng hạ tầng thanh toán quốc gia nhằm đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng trong nền kinh tế số; tăng cường quản lý, giám sát đối với các hệ thống thanh toán, đảm bảo an ninh, an toàn, hiệu quả và thông suốt; triển khai các giải pháp thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, ứng dụng công nghệ, phương thức thanh toán hiện đại; đẩy mạnh triển khai các mô hình thanh toán tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Bảy là, triển khai có hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Tám là, tăng cường hợp tác quốc tế để nâng cao vị thế của ngành ngân hàng Việt Nam trên trường quốc tế.