Hiệp định CPTPP và những nét chính
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) gồm khoảng 8.000 trang được quy định trong phạm vi 30 chương, bao trùm nhiều vấn đề từ thương mại truyền thống, thuế quan, đầu tư đến các vấn đề phi thương mại. CPTPP dự kiến có thể trở thành mô hình quản trị thương mại toàn cầu thế kỷ 21. Nếu như các hiệp định thương mại truyền thống dừng lại ở các quy định về hàng hóa và dịch vụ, Hiệp định CPTPP đã đặt ra các nguyên tắc với các vấn đề rất mới, phát sinh từ xu thế phát triển của thời đại.
Các chương của Hiệp định chia thành ba nhóm chính: hàng hóa, dịch vụ và các vấn đề khác. Trong đó, nhóm dịch vụ bao gồm 5 chương: thương mại dịch vụ xuyên biên giới, dịch vụ tài chính, thương mại điện tử, viễn thông, nhập cảnh tạm thời cho người kinh doanh. Đây là Hiệp định đầu tiên và duy nhất cho đến thời điểm này xác lập khuôn khổ pháp lý cho việc đầu tư trong lĩnh vực tài chính ngân hàng tại một chương riêng biệt.
Hiện nay, theo các cam kết quốc tế trong CPTPP và các FTA, các tổ chức tài chính nước ngoài có thể tham gia thị trường Việt Nam theo các hình thức: văn phòng đại diện; chi nhánh ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên doanh; ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Góp vốn cổ phần vào các ngân hàng TMCP tại Việt Nam với tổng tỷ lệ cổ phần của nước ngoài không vượt quá 30%, trong đó sở hữu cổ phần của nhà đầu tư chiến lược là không quá 20%, của nhà đầu tư cá nhân không quá 5% và của tổ chức không quá 10%. Công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài.
Tính đến nay, tại Việt Nam đang có 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 2 ngân hàng liên doanh, 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 11 tổ chức phi ngân hàng và 50 văn phòng đại diện của các tổ chức nước ngoài.
Cho phép các tổ chức thẻ quốc tế cung cấp dịch vụ thanh toán bù trừ ở nước ngoài là nội dung cam kết mới trong CPTPP
Trong lĩnh vực ngân hàng, cam kết CPTPP không chỉ dừng lại các cam kết mở cửa thị trường, điểm cộng (plus) của CPTPP đó chính là các cam kết về nghĩa vụ mới và các cam kết về thể chế nhằm mang lại cho nhà đầu tư một môi trường kinh doanh bình đẳng và minh bạch hơn thông qua các cơ chế như Ratchet, ISDS và các nghĩa vụ mới như dịch vụ tài chính (DVTC) mới, thanh toán điện tử… để thực hiện.
Một số nghĩa vụ mới
Ngoài các điều khoản tiêu chuẩn của một hiệp định thương mại tự do, Hiệp định CPTPP đặt ra các yêu cầu cam kết ở một mức độ cao hơn nhằm hướng tới một trường đầu tư thuận lợi dành cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Một số nội dung cam kết mới trong Hiệp định CPTPP, ví dụ như:
- Cung cấp dịch vụ tài chính mới: Quy định yêu cầu nước thành viên nếu cho phép tổ chức tài chính của mình cung cấp dịch vụ tài chính mới (mà không cần phải xây dựng mới hoặc sửa đổi luật), thì cũng phải cho phép các tổ chức tài chính của nước CPTPP khác cung cấp dịch vụ tương tự.
- Chuyển thông tin: Việt Nam cam kết cho phép tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động trên thị trường của mình được phép chuyển thông tin dạng điện tử hoặc dạng khác vào và ra khỏi lãnh thổ nhằm mục đích xử lý thông tin vì các mục đích hoạt động kinh doanh thông thường. Tuy nhiên, cơ quan quản lý của mỗi nước vẫn duy trì quyền áp dụng các biện pháp liên quan đến bảo mật dữ liệu, thông tin và bí mật cá nhân hay yêu cầu tổ chức tài chính nước ngoài phải xin cấp phép trước từ cơ quan chức năng đối với bên tiếp nhận thông tin.
- Cơ chế Ratchet: Cơ chế này áp dụng đối với Hiệp định CPTPP. Đây là cơ chế mới so với WTO, theo đó các nước CPTPP sẽ phải giữ nguyên hiện trạng các biện pháp hiện hành và nếu sửa đổi chỉ sửa theo hướng tự do hóa hơn (khi một nước có biện pháp tự do hóa tự nguyện cao hơn mức cam kết tại thời điểm ký Hiệp định thì biện pháp đó sẽ trở thành mức cam kết mới). Kết thúc đàm phán, các nước CPTPP đã nhất trí với đề xuất của Việt Nam về việc áp dụng thời gian chuyển đổi (3 năm) khi thực hiện cơ chế Ratchet.
Cơ chế giải quyết tranh chấp và bảo hộ đầu tư được áp dụng đối với Hiệp định CPTPP, hướng tới việc đảm bảo đầy đủ lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư. Đây là nội dung mang tính tiêu chuẩn cao trong các hiệp định đầu tư và thương mại quốc tế. Theo đó, quy định cho phép nhà đầu tư nước ngoài kiện Chính phủ và các cơ quan nhà nước khi vi phạm các nghĩa vụ của Hiệp định.
- Dịch vụ thanh toán điện tử: Đây là nội dung cam kết mới trong Hiệp định TPP. Theo đó, các nước cam kết cho phép các tổ chức thẻ quốc tế cung cấp dịch vụ thanh toán bù trừ ở nước ngoài cho các giao dịch thanh toán thẻ. Đối với Việt Nam, ta cam kết mở cửa thị trường này như sau: (i) Mở cửa thị trường thẻ có mã quốc tế, cho phép các nhà cung cấp nước ngoài cung cấp qua biên giới các dịch vụ thanh toán bù trừ (không mở cửa thị trường thẻ nội địa); (ii) Bảo lưu quyền thực hiện các biện pháp nhằm mục tiêu quản lý như bảo mật thông tin khách hàng, các quy định quản lý phí giao dịch và các biện pháp để thực hiện mục tiêu chính sách công; và (iii) Bảo lưu quyền yêu cầu chuyển mạch qua một cổng thống nhất tại đơn vị chuyển mạch thẻ quốc gia.
Về vấn đề này, ngày 30/6/2016, NHNN đã ban hành Thông tư 19/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng. Theo đó, Khoản 2, Điều 24 của Thông tư quy định việc chuyển mạch giao dịch thẻ “phải được thực hiện thông qua một cổng do một tổ chức chuyển mạch thẻ được NHNN cấp phép vận hành”, phản ánh đúng cam kết CPTPP đã được thống nhất giữa Việt Nam và các nước CPTPP. Hiện nay, theo Thông tư 71/2018/TT-NHNN, nội dung này sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2020 để tạo điều kiện cho các bên có thời gian thảo luận và chuẩn bị kỹ thuật cho việc triển khai.
Đóng góp của các TCTD nước ngoài với nền kinh tế Việt Nam
Mở cửa thị trường tài chính sẽ là điều kiện tốt để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực tài chính, tạo ra cơ hội kết nối giữa các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài. Các luồng vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam sẽ tăng mạnh trong thời gian tới tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng cường thanh khoản và gia tăng cơ hội kinh doanh, đồng thời góp phần đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả của công tác xử lý nợ xấu, tái cơ cấu hệ thống các TCTD toàn diện trên các mặt tài chính, quản trị và hoạt động; xử lý triệt để sở hữu chéo, cho vay sân sau.
Việt Nam có cơ hội thu hút FDI vào ngành ngân hàng, một ngành cần vốn, công nghệ và năng lực quản lý điều hành cao. Việc tham gia sâu rộng của các nhà đầu tư nước ngoài cũng sẽ tạo điều kiện mở rộng hợp tác, nâng cao năng lực quản trị và tài chính cho các ngân hàng nội địa.
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội cho các ngân hàng trong nước nâng cao năng lực quản trị, điều hành, hiệu quả hoạt động, khả năng cạnh tranh. Các ngân hàng và tổ chức tín dụng Việt Nam sẽ có điều kiện học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ công nghệ và quản trị ngân hàng.
Bên cạnh đó, sự tham gia điều hành, quản trị của các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước là yếu tố quan trọng để cải thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh ở các ngân hàng nội địa. Cơ hội này cũng sẽ giúp cho các ngân hàng trong nước có khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các chi phí cơ hội.
Thông qua liên kết kinh doanh, các ngân hàng trong nước tiếp thu được công nghệ ngân hàng, kỹ năng quản lý tiên tiến, đặc biệt là kỹ năng quản trị, phát triển sản phẩm mới và khả năng phòng ngừa, xử lý rủi ro. Sự tham gia điều hành, quản trị và những hỗ trợ, tư vấn kỹ thuật trong áp dụng công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước là yếu tố quan trọng góp phần cải thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh của các ngân hàng.
Môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính, các NHTM nước ngoài đến từ các khu vực tài chính phát triển làm phong phú các sản phẩm tài chính hiện đại, tạo kênh cung ứng vốn, kênh dịch vụ đa dạng cho các DN Việt Nam. Trong thời gian tới, ngành ngân hàng sẽ phát huy tối đa vai trò là cầu nối, kênh dẫn vốn hiệu quả giữa nền kinh tế và các doanh nghiệp. Qua đó, hiện thực hóa các cơ hội do CPTPP mang lại; đồng thời, thúc đẩy các NHTM nói riêng và các DN trong nước nói chung tích cực cạnh tranh để tồn tại và phát triển, không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng hoạt động ra khu vực và thế giới.
Hàm ý chính sách đối với cơ quan quản lý
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, bổ sung xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề/nội dung cam kết mới phù hợp với các cam kết quốc tế, góp phần làm cho pháp luật Việt Nam trở nên tương thích hơn với pháp luật của các nước trên thế giới.
Có lộ trình trong việc áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong quản lý giám sát, trong hoạt động của các tổ chức tài chính trong bối cảnh tự do hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. NHNN đã quyết liệt triển khai nhiều biện pháp, ban hành kế hoạch, lộ trình cụ thể, áp dụng chuẩn mực Basel II đối với hệ thống NHTM nhằm nâng cao năng lực quản lý rủi ro và chuẩn mực an toàn trong hoạt động ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
Điều này cũng tạo ra nền tảng để giúp các ngân hàng Việt Nam tiếp cận với các thị trường vốn quốc tế một cách dễ dàng, với chi phí thấp và tăng mức độ tin cậy của các định chế tài chính toàn cầu, các nhà đầu tư và các tổ chức quốc tế khác đối với Việt Nam, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của ngành ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới.
Thực hiện các công cụ của nền kinh tế thị trường trong điều hành và thực thi các chính sách tiền tệ trong điều kiện tự do hóa, nhằm phù hợp mục tiêu điều hành, diễn biến kinh tế thế giới, đồng thời bảo đảm hài hòa lợi ích giúp nền kinh tế có điều kiện phát triển tốt hơn. Trong những năm qua, NHNN đã đề ra chiến lược dài hạn và các chính sách tiền tệ linh hoạt để điều hành hoạt động của ngành ngân hàng và hỗ trợ tích cực cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.
Hàm ý chính sách với các NHTM
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng cao của nền kinh tế, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống ngân hàng Việt Nam so với các ngân hàng trong khu vực và thế giới là một đòi hỏi cần thiết, hệ thống ngân hàng thương mại cần:
Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm giúp các ngân hàng thương mại nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị phần. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm theo hướng quốc tế là mối quan tâm lớn của các ngân hàng nhằm khai thác thị trường bán lẻ. Vì vậy, việc tạo điểm nhấn cho sản phẩm và tổng hòa giữa việc bám sát nhu cầu của khách hàng và đáp ứng xu thế của hội nhập thị trường là điều vô cùng quan trọng.
Thứ hai, NHTM cần tiến tới áp dụng các chuẩn mực quốc tế như Basel II, nhằm tăng cường an toàn và hiệu quả hoạt động, giúp các ngân hàng phát triển bền vững, đảm bảo mục tiêu đẩy mạnh tái cơ cấu ngành ngân hàng, cắt giảm nợ xấu, giúp các ngân hàng phòng tránh những cú sốc trước những biến động lớn khó lường của thị trường tài chính.
Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá, các NHTM phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập để có thể biến những thách thức thành cơ hội, biến những khó khăn thành lợi thế nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của các ngân hàng. Việc áp dụng Basel II tại các NHTM vì thế vừa là một xu thế phù hợp, vừa là một yêu cầu tất yếu.
Bên cạnh đó, NHTM cần nâng cao năng lực quản trị điều hành tại các ngân hàng nhằm tăng tính hiệu quả và minh bạch, giúp NHTM thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra đối với NHTM.
Cuối cùng, các NHTM cần nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy sự lành mạnh của hệ thống NHTM Việt Nam, sự bền vững của ngành ngân hàng trong tương lai. Trong thời gian vừa qua, tiến trình xây dựng ngành ngân hàng Việt Nam lành mạnh đã đánh dấu được những bước tiến đáng kể trong việc tái cấu trúc ngành ngân hàng, giảm số lượng ngân hàng yếu kém, nâng cao năng lực của các NHTM, đặc biệt là về chất lượng tài sản, khả năng sinh lời, hệ số an toàn vốn và năng lực quản trị.
Có thể nhận thấy, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và ngân hàng nói riêng đang đi đúng hướng. Tuy nhiên, những chuyển biến mạnh mẽ trong cục diện chính trị, kinh tế thế giới đặt ra những thách thức không nhỏ cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Trước tình hình đó, ta cần bám sát chủ trương đường lối của Đảng, Chính phủ để xử lý tốt các mối quan hệ nhằm vừa chủ động tích cực hội nhập quốc tế vừa xây dựng được một nền kinh tế tự chủ, nâng cao sức mạnh tổng thể quốc gia.
Việc tham gia các FTA thế hệ mới, bên cạnh các lợi ích, Việt Nam cũng phải thực thi các cam kết hội nhập sâu rộng và đối mặt với sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt ở cả ba cấp độ, quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Vấn đề đặt ra là làm sao để hiện thực hóa các cơ hội, hạn chế các rủi ro và xử lý tốt các thách thức.
Triển khai hiệu quả các FTA thế hệ mới sẽ giúp tăng cường nội lực, nâng cao năng lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế, nuôi dưỡng và phát triển được các yếu tố mới và đột phát trong nền kinh tế. Song song với đó, ta cần nỗ lực duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng một hệ thống ngân hàng hoạt động có tính tuân thủ với năng lực cạnh tranh cao nhằm thích nghi và điều chỉnh linh hoạt trước những biến động kinh tế và thế giới và khu vực.