Góp vốn - rút vốn và những lỗ hổng pháp lý

(ĐTCK) Rút vốn là hành vi bị cấm, nhưng thực tế, tại không ít công ty có tình trạng rút vốn núp dưới nhiều hình thức khác nhau, mà việc cổ đông lớn vay vốn từ chính DN góp vốn là phổ biến.
Góp vốn - rút vốn và những lỗ hổng pháp lý

>> Bài 1: Cổ đông thiểu số và cơ chế bảo vệ

>> Bài 2: Điều lệ công ty: Quan trọng đến đâu?

>> Bài 3: Hiểu đúng về các loại cổ phiếu

>> Bài 4: Bầu dồn phiếu và tỷ lệ thông qua nghị quyết ĐHCĐ

>> Bài 5: Hội đồng quản trị - Giới hạn trách nhiệm đến đâu?

>> Bài 6: ĐHĐCĐ: Tổ chức quyền lực bị xâu xé bởi các nhóm lợi ích

>> Bài 7: Ban Kiểm soát: Kiểm soát đến đâu?

Theo Luật Doanh nghiệp (LDN) 2005, góp vốn là việc đưa tài sản vào DN để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Quy định thì đơn giản như vậy, nhưng trên thực tế, vấn đề góp vốn ảo, tranh chấp về góp vốn, rút vốn đang diễn ra rất phức tạp, đòi hỏi phải có những quy định rõ ràng và cụ thể hơn trong LDN sửa đổi để bịt kín lỗ hổng này.

 

Từ quy định đơn giản…

Năm 2012, tổng số DN thành lập mới trên cả nước là 69.874 đơn vị với số vốn đăng ký 467.265 tỷ đồng, giảm 9,9% về số DN và giảm 9% về số vốn so với năm 2011. Tính đến thời điểm 30/6/2013, toàn quốc hiện có 457.343 DN đang hoạt động, tăng 39.700 DN, tương ứng tăng 9,5% so với cùng kỳ 2012 và tăng 4,9% so với thời điểm 31/12/2012. Trong số này, số DNNN là 6.852; DN đầu tư nước ngoài là 11.984; DN ngoài quốc doanh là 438.507.

Theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xét theo quy mô vốn đăng ký cho thấy, mức vốn đăng ký bình quân trên một DN trong quý I/2013 (5,05 tỷ đồng/DN) giảm 10% so với cùng kỳ 2012 (5,61 tỷ đồng/DN), giảm 19% so với quý IV/2012 (6,24 tỷ đồng/DN).

LDN 2005 quy định: tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty.

Khi góp vốn, thành viên/cổ đông phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty theo quy định. Thành viên phải góp vốn đầy đủ và đúng hạn bằng loại tài sản góp vốn như đã cam kết. Trường hợp thành viên thay đổi loại tài sản góp vốn đã cam kết thì phải được sự nhất trí của các thành viên còn lại. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thông báo bằng văn bản tiến độ góp vốn đăng ký đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày cam kết góp vốn và phải chịu trách nhiệm cá nhân về các thiệt hại cho công ty và người khác do thông báo chậm trễ hoặc thông báo không chính xác, không trung thực, không đầy đủ...

Góp vốn - rút vốn và những lỗ hổng pháp lý ảnh 1Với hàng trăm cổ phiếu có giá thấp hơn mệnh giá trên sàn, nguy cơ cổ đông lớn mượn danh nghĩa vay tiền để rút vốn là hiện hữu

 

…đến thực tế muôn hình vạn trạng

LDN 2005 cũng cấm kê khai khống vốn đăng ký, không góp đủ và đúng hạn số vốn như đã đăng ký; cố ý định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị thực tế. Bên cạnh đó là việc quy định chi tiết trách nhiệm báo cáo kết quả tiến độ góp vốn đến Phòng đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư của người đại diện theo pháp luật của công ty. Tuy nhiên, thực tế tranh chấp và tố tụng cho thấy, một số quy định tại LDN 2005 lạc hậu với thực tiễn liên quan đến việc xác định tư cách thành viên, xác định thời điểm góp vốn để trở thành thành viên/cổ đông của công ty và rút vốn góp.

Thứ nhất, việc LDN quy định về xử lý phần vốn góp trong các trường hợp khác như: (i) Trường hợp thành viên là cá nhân chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của thành viên đó là thành viên của công ty; (ii) Trường hợp người được tặng cho là người có cùng huyết thống đến thế hệ thứ ba thì họ đương nhiên là thành viên của công ty; (iii) Trường hợp thành viên sử dụng phần vốn góp để trả nợ thì người nhận thanh toán có quyền sử dụng phần vốn góp đó theo một trong hai cách sau đây: a) Trở thành thành viên của công ty nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận; b) Chào bán và chuyển nhượng phần vốn góp đó theo quy định tại Điều 44 của LDN.

Thực tiễn tranh chấp không đơn giản như trên, vì bản chất của công ty TNHH là công ty đóng (từ 2 - 50 thành viên), hoặc đa phần là các công ty có quy mô vừa và nhỏ, công ty kiểu gia đình, thành viên/cổ đông quen biết nhau khi cùng sáng lập nên công ty. Việc xảy ra các sự cố trong quá trình hoạt động như thành viên/cổ đông chết; tặng cho vốn góp người cùng huyết thống đến thế hệ ba (hàng cháu) hay sử dụng phần vốn để trả nợ mà xác định người thừa kế, người nhận tặng cho, người nhận thanh toán là thành viên công ty (đương nhiên) sẽ phá vỡ cấu trúc mối quan hệ “quen biết” giữa các thành viên/cổ đông và nguyên tắc thỏa thuận của các thành viên/cổ đông khi thành lập công ty. Chưa kể việc tiếp nhận thành viên/cổ đông mới này cũng không đơn giản nếu Hội đồng thành viên/HĐQT bằng quyền phủ quyết của mình, không chấp nhận thành viên/cổ đông mới (người thừa kế, tặng cho, nhận thanh toán), nhất là khi thành viên chết, tặng cho vốn hoặc trả nợ lại nắm các chức vụ quản lý của công ty.

Vụ việc xảy ra tại CTCP Xây dựng BV vừa qua là một ví dụ điển hình. Tại DN này, ông S. là Chủ tịch HĐQT (HĐQT gồm 5 thành viên) kiêm Giám đốc - người đại diện theo pháp luật. Ông này nắm 51% vốn điều lệ; trong đó 24,04% là vốn sở hữu của cá nhân, 7% là đại diện theo ủy quyền của tập thể người lao động, còn lại đại diện cho cổ đông nhà nước. Do ông S. mất đột ngột, nên người thừa kế hợp pháp của ông này đã làm các thủ tục để trở thành cổ đông của Công ty và muốn ứng cử vào làm thành viên HĐQT, làm Giám đốc để tiếp tục duy trì và quản lý phần vốn của ông S. để lại.

Tuy nhiên, việc này vấp phải sự phản đối của các thành viên HĐQT (4 thành viên nắm 20% vốn điều lệ) còn lại với lý do họ cho rằng, người thừa kế của ông S. không có chuyên môn theo quy định tại Điều lệ Công ty. Vì vậy, nhóm thành viên HĐQT này đã tự bầu 1 thành viên lên làm Chủ tịch HĐQT và Giám đốc (đáng lưu ý là thành viên này đang có những giao dịch xung đột lợi ích với Công ty, vì hiện cũng đang  làm giám đốc một DN xây dựng trên địa bàn, có cạnh tranh trực tiếp với Công ty). Các thành viên HĐQT này chỉ nắm 20% nhưng đã khuynh đảo Công ty bằng việc không thừa nhận người thừa kế của ông S., không thanh toán lại số cổ phần của ông S. để lại, thậm chí còn ép người thừa kế của ông S. phải chuyển nhượng lại cổ phần với giá thấp hơn so với mệnh giá ban đầu dù Công ty làm ăn có lãi, chia cổ tức cao hơn lãi suất ngân hàng…

Thứ hai, LDN 2005 có quy định cấm kê khai khống vốn đăng ký, không góp đủ và đúng hạn số vốn như đã đăng ký; cố ý định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị thực tế. Nhưng thực tế cho thấy, tại nhiều DN, luôn tồn tại hai loại sổ đăng ký cổ đông/thànhviên. Một loại là số vốn thực góp của các cổ đông/thànhviên dùng để giải quyết trong nội bộ DN. Một sổ dùng riêng cho việc “đối phó” với cơ quan đăng ký kinh doanh do quy định của pháp luật về báo cáo tiến độ góp vốn và tỷ lệ vốn góp theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Điều này dẫn đến một thực trạng là khi tất cả cổ đông/thànhviên sáng lập đều không góp đủ vốn như cam kết thì cũng “ hòa cả làng”. Người đại diện theo pháp luật cứ “báo cáo láo” kết quả tiến độ góp vốn đến Phòng đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư thì bản thân cơ quan này cũng không đủ công sức và thời gian để theo dõi, xử lý, trừ khi tranh chấp nảy sinh trong chính nội bộ DN, có yêu cầu, đề nghị, thì may ra mới biết về thực trạng góp vốn của DN.

Hệ quả của việc khai không vốn đăng ký, không góp đủ, đúng hạn, định giá tài sản không đúng giá trị là các DN này tạo ra một nguồn lực vốn “ảo” cho xã hội, cũng như tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các đối tác, bạn hàng, ngân hàng… Vì vốn góp (vốn điều lệ thể hiện trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) là giới hạn trách nhiệm của DN với những thiệt hại phát sinh trong suốt quá trình kinh doanh. Giả sử có tranh chấp xảy ra thì với những quy định hiện hành, DN cũng không biết sợ, trong khi cơ quan quản lý lại thiếu chế tài xử phạt vi phạm hành chính do chưa được ban hành.

Có lập luận cho rằng, nếu LDN chưa quy định thì có thể quy định trong Điều lệ để xử lý vấn đề này, vì đây là thỏa thuận của các thành viên/cổ đông. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh rằng, nhiều bản Điều lệ hiện nay không giải quyết được vấn đề này vì: luật không quy định nên thành viên/cổ đông không biết đâu mà lần và sự dễ dãi của khâu thành lập DN với giá rẻ và những bản “Điều lệ mẫu” chỉ thay đổi họ tên không phản ánh đúng thực trạng của công ty.

Thứ ba, một số quy định về góp vốn và xử lý phần vốn góp hiện không giải quyết được các trường hợp liên quan đến các thành viên/cổ đông cam kết góp vốn vào DN với tư cách là các “nhà đầu tư chiến lược” hay cổ đông sáng lập. Những nhà đầu tư này khi góp vốn vào DN được tham gia vào HĐQT, đảm nhận vị trí giám đốc/tổng giám đốc thì lập tức rút ngay vốn ra khỏi DN (ngay trong khoảng thời gian ngắn bằng các thủ thuật mà luật cấm). Vụ việc tại CTCP Cung ứng tàu biển Hải Phòng (Shipchanco) với cổ đông Đặng Thị Hồng Hải và vụ việc tại Công ty Hapulico với cổ đông sáng lập là Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng Ba Đình là những ví dụ điển hình thời gian qua.

Tóm lại, khi góp vốn vào một công ty, người góp vốn phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với trách nhiệm phát sinh trong quá trình hoạt động của công ty đó. Người góp vốn có quyền chuyển nhượng phần vốn góp (chuyển nhượng cổ phần), song không được phép rút vốn. Rút vốn là hành vi bị cấm, nhưng thực tế, tại không ít công ty có tình trạng rút vốn núp dưới nhiều hình thức khác nhau, mà việc cổ đông lớn vay vốn từ chính DN góp vốn là phổ biến. Theo các chuyên gia, hành vi rút vốn không đồng nghĩa với việc mất quyền cổ đông, mà khi có hành vi rút vốn trái luật, phải yêu cầu hoàn trả lại vốn, bồi thường thiệt hại (nếu có) và chịu trách nhiệm vô hạn đối với khoản nợ phát sinh hoặc kiện cáo (nếu có).

LDN sửa đổi sắp tới cần phải khắc phục hiện tượng này nhằm tránh những tiền lệ xấu cho thị trường. Với hàng trăm cổ phiếu có giá thấp hơn mệnh giá hiện nay, những cổ đông, đặc biệt là cổ đông lớn, có thể mượn danh nghĩa vay tiền để rút vốn với giá bằng mệnh giá khỏi công ty là một rủi ro không thể không tính đến.

(Bài 9: Giải quyết tranh chấp trong nội bộ DN: Có cần thủ tục rút gọn?)

Luật sư Lê Minh Toàn - Công ty Luật Lê Minh
Luật sư Lê Minh Toàn - Công ty Luật Lê Minh

Tin cùng chuyên mục