
Với xu thế phát triển của kiểm toán và thị trường tài chính, Quốc hội dự tính thông qua Luật Kiểm toán độc lập vào năm 2011. Giá trị của báo cáo kiểm toán (BCKT) là một nội dung quan trọng trong Dự thảo. Bài viết này sẽ đề cập tới giá trị của BCKT, bên cạnh đó là các ý kiến kiểm toán theo quy định của các chuẩn mực kiểm toán VN và thông lệ quốc tế.
1.Giá trị của BCKT
Đối với DNNN, theo Điều 9 Luật Kiểm toán nhà nước 2005, giá trị của BCKT nhà nước xác định tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính (BCTC), báo cáo quyết toán ngân sách, việc tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của Nhà nước - là một trong những căn cứ quan trọng để Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp, cơ quan khác của nhà nước sử dụng trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đối với DN không phải là DNNN, BCKT độc lập cũng có giá trị tương tự cho những người sử dụng, bao gồm cả DN, cá nhân và đơn vị có trách nhiệm, quyền lợi với DN, do vậy cũng được nhấn mạnh trong dự thảo Luật Kiểm toán độc lập.
Giá trị pháp lý của BCKT
Giá trị này được thể hiện thông qua yêu cầu kiểm toán đối với DN theo luật định. Với các DN này, kiểm toán độc lập là bắt buộc theo quy định của Nhà nước. Nếu không kiểm toán, DN có thể gặp các vấn đề pháp lý như BCTC có thể không được cơ quan thuế chấp thuận, dẫn tới thanh tra, phạt thuế. BCTC được kiểm toán là điều kiện cần để các DN được niêm yết và hàng năm các DN phải nộp BCKT theo quy định, nếu không sẽ bị phạt, thậm chí bị loại khỏi sàn niêm yết.
Giá trị của BCKT
Như ông Bùi Văn Mai, Phó chủ tịch Thường trực kiêm Tổng thư ký VACPA đã phát biểu tại hội thảo Giá trị của kiểm toán trong môi trường kinh tế hiện nay, do Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh quốc (ACCA) tổ chức tại Hà Nội ngày 7/5/2010, giá trị của kiểm toán và BCKT (độc lập) nằm trong chính giá trị thực tế của nó đối với vấn đề quản lý điều hành sản xuất, kinh doanh và đầu tư tài chính.
Giá trị của BCKT đối với DN (đối tượng) được kiểm toán
Kiểm toán có thể giúp DN định vị được tính trung thực và hợp lý của tình hình sản xuất - kinh doanh, tình hình tài sản, kết quả hoạt động của DN. Kiểm toán viên thường yêu cầu DN hạch toán các bút toán điều chỉnh cần thiết theo đúng chuẩn mực và hệ thống kế toán Việt Nam (hay quốc tế) trước khi đưa ra ý kiến. Do vậy, nếu báo cáo về tình hình sản xuất - kinh doanh và kết quả hoạt động có sai sót trọng yếu hoặc áp dụng các chính sách tài chính chưa hợp lý, công ty kiểm toán sẽ không đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần. Do đó, thông tin trên BCTC được kiểm toán có thể là cơ sở được dùng làm góp vốn liên doanh, chia lợi tức, định giá DN...
Qua quá trình kiểm toán và thảo luận với các chuyên gia kiểm toán, qua các vấn đề nêu trong thư quản lý sau khi kiểm toán, DN thường được khuyến cáo về những tồn tại trong quản lý kinh doanh như các điểm yếu trong hệ thống kiểm soát nội bộ, các vấn đề về hạch toán kế toán, thuế, các vấn đề tồn tại khác trong quản lý, cũng như biện pháp khắc phục để điều hành DN một cách hiệu quả hơn.
Kiểm toán độc lập cũng có giá trị giúp ban giám đốc, người điều hành giảm bớt một phần trách nhiệm của họ đối với NĐT. Trong trường hợp BCTC đã được kiểm toán, một phần trách nhiệm của ban giám đốc đã được chuyển giao cho công ty kiểm toán. NĐT trong trường hợp cần thiết thay vì khởi kiện ban giám đốc, người điều hành có thể chuyển sang khởi kiện công ty kiểm toán gây ra trách nhiệm liên đới. Ở nước ngoài đã có nhiều trường hợp NĐT khởi kiện công ty kiểm toán hoặc là kiểm toán viên phụ trách do cẩu thả không thực hiện đúng thủ tục kiểm toán, gây ra ảnh hưởng cho các NĐT như vụ các nạn nhân của Madoff kiện PwC và KPMG đã cẩu thả trong việc kiểm toán các quỹ liên quan tới vụ Madoff là Quỹ Fairfield Sentry và Quỹ Tremont Group; tổng số tiền mà các NĐT đòi hỏi là 2 tỷ USD từ PwC và 3,3 tỷ USD từ KPMG.
Giá trị của BCKT đối với người đọc BCTC
Người sử dụng BCKT (ngân hàng, cơ quan thuế, NĐT…) thông qua BCKT có thể đánh giá được các điểm rủi ro của DN, có cơ sở để đưa ra các quyết định của mình. Không phải ngẫu nhiên mà Nghị định 105 từ năm 2004 đã yêu cầu DN có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức hoạt động tín dụng, ngân hàng, quỹ hỗ trợ phát triển, tổ chức tài chính và DN kinh doanh bảo hiểm, các công ty niêm yết, công ty vay vốn ngân hàng… phải kiểm toán hàng năm. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, nhiều công ty TNHH, công ty cổ phần (không có yếu tố nước ngoài) chưa cần phải kiểm toán. Do vậy, độ tin cậy về số liệu trên BCTC của các công ty này chưa cao.
Trong khi đó, hầu hết các nước phát triển đều yêu cầu công ty vừa và lớn phải có báo cáo được kiểm toán. Theo Luật DN Anh quốc cho năm tài chính 2009, các công ty TNHH nhỏ với doanh thu ít hơn 6,5 triệu bảng, tổng tài sản ít hơn 3,26 triệu bảng không phải kiểm toán bắt buộc, còn các công ty TNHH vừa và lớn đều phải kiểm toán và phải nộp BCKT cho Ban Quản lý DN Anh quốc trong vòng 9 tháng.
Theo nghiên cứu ở các thị trường tài chính quốc tế, BCKT làm tăng tính tin cậy của BCTC, chủ yếu là có giá trị đối với các NĐT. BCTC kiểm toán chứng tỏ hoặc đưa ra tín hiệu là công ty có hệ thống tài chính minh bạch và chuẩn mực. BCKT trong trường hợp này giúp các NĐT trả giá cao hơn cho cổ phiếu hoặc các quỹ đầu tư sẵn lòng bỏ tiền giúp DN giảm chi phí vốn. Do vậy, một số công ty tự nguyện kiểm toán, dù luật không bắt buộc. Hiện nay, một số công ty ở Việt Nam không bị yêu cầu phải kiểm toán cũng đang có xu hướng thực hiện kiểm toán tự nguyện để khẳng định giá trị của công ty, nhất là khi có kế hoạch niêm yết.
Trong một số trường hợp cụ thể, BCKT có thể giúp NĐT, ngân hàng… kiện DN khi xảy ra phá sản hoặc ban lãnh đạo gian lận tài chính, ví dụ trường hợp BCKT khẳng định tình hình tài chính của DN không giống với tình hình mà DN đã báo cáo cho NĐT, ngân hàng.
Ngoài các giá trị nói trên, BCKT độc lập còn góp phần nâng cao môi trường đầu tư lành mạnh và bình đẳng, hội nhập quốc tế cho các DN, đồng thời tạo điều kiện cho các DN nước ngoài đến đầu tư.
2.Các ý kiến kiểm toán
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 (VAS700) - BCKT về BCTC ban hành theo Quyết định số 120/1999/QĐ-BTC ngày 27/9/1999 của Bộ Tài chính, để đưa ra ý kiến kiểm toán, kiểm toán viên cần thực hiện các thủ tục kiểm toán, gồm:
- Cân nhắc về mức độ tin cậy hợp lý của các bằng chứng kiểm toán thu thập (VSA 330 và Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 330 - ISA 330).
- Cân nhắc các bút toán yêu cầu điều chỉnh mà DN chưa điều chỉnh có trọng yếu hay không (VSA450 và ISA450).
- Cân nhắc chất lượng của việc lựa chọn chính sách kế toán tích hợp và áp dụng chính sách này một cách nhất quán, bao gồm cả các vấn đề liên quan tới sai sót trong việc lựa chọn các chính sách này.
- Cân nhắc về BCTC có trình bày và sử dụng đầy đủ, nhất quán các chính sách kế toán quan trọng hay không.
- Cân nhắc về việc áp dụng các chính sách kế toán được DN lựa chọn có phù hợp với các chuẩn mực kế toán, hệ thống kế toán Việt Nam và tuân thủ các quy định có liên quan hay không.
- Cân nhắc về việc DN có thực hiện các đánh giá và ước tính một cách hợp lý và thận trọng hay không.
- Kiểm tra các thông tin trên BCTC thích hợp, đáng tin cậy, có thể so sánh và dễ hiểu hay không.
- Cân nhắc về các thuyết minh có cho phép người sử dụng BCKT có thể hiểu được các giao dịch trọng yếu và các sự kiện bằng các thông tin trình bày trên BCTC hay không.
- Đảm bảo các thuật ngữ áp dụng trong báo cáo là phù hợp.
- Cần đánh giá trình bày tổng thể của BCTC.
- Cân nhắc BCTC có phản ánh thực chất các giao dịch và sự kiện cho mục đích trình bày một cách trung thực thông tin trên báo cáo.
- Đánh giá BCTC có phù hợp với hệ thống kế toán đã được đăng ký hay không.
Sau khi cân nhắc các yếu tố trên, BCKT có thể có các loại ý kiến sau theo VSA700 hay ISA700.
Ý kiến chấp nhận toàn phần
Là khi kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng, BCTC phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của DN, hàm ý là tất cả các nguyên tắc kế toán và tác động đã được xem xét, đánh giá một cách đầy đủ (thường được đề cập trong phần thuyết minh BCTC - phần các chính sách kế toán).
Ý kiến này được áp dụng trong trường hợp báo cáo có một đoạn nhận xét để làm sáng tỏ một số vấn đề không trọng yếu, nhằm giúp người đọc đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố này tới BCTC. Ví dụ, trong BCKT của CTCP Xi măng Hà Tiên 2 cho năm tài chính 2009, công ty kiểm toán lưu ý: dự án Trạm nghiền Xi măng Hà Tiên II - Long An đã đưa vào sử dụng nhưng chưa đưa vào nguyên giá tài sản và trích khấu hao, do chưa hoàn thiện công tác nghiệm thu. Do vậy, khi gặp ý kiến này với các lưu ý của kiểm toán viên, người sử dụng báo cáo phải tự đánh giá các tác động trong các quyết định của mình.
Ý kiến chấp nhận từng phần
Được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên bị giới hạn công tác kiểm toán hoặc không đồng ý với giám đốc trong một số hạch toán kế toán hoặc chính sách kế toán. Các vấn đề này ảnh hưởng quan trọng, nhưng không liên quan tới một số lượng các khoản mục tới mức phải đưa ra "ý kiến từ chối" hoặc "không chấp nhận". Ý kiến kiểm toán chấp nhận từng phần thường được thể hiện bởi "ngoại trừ ảnh hưởng của các vấn đề nêu trên". Ví dụ, BCKT của CTCP Kinh Đô cho năm tài chính 2009, công ty kiểm toán đã "ngoại trừ" ảnh hưởng của giá trị quyền sử dụng thương hiệu là 50 tỷ đồng mà Công ty TNHH Xây dựng và chế biến thực phẩm Kinh Đô góp vốn vào Công ty, cũng như phần chi phí khấu trừ là 2,5 tỷ đồng trong năm. Do vậy, người sử dụng báo cáo cần lưu ý về các khoản mục này và cần điều chỉnh hoặc loại trừ khi phân tích, sử dụng báo cáo.
Ý kiến từ chối (hoặc không thể đưa ra ý kiến)
Được đưa ra trong trường hợp có giới hạn quan trọng tới phạm vi kiểm toán hoặc là thiếu thông tin liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục, tới mức mà kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về BCTC. Một ví dụ thường dẫn tới ý kiến từ chối là khi DN không kiểm soát chặt chẽ về bán hàng, dẫn tới hạn chế từ đơn vị mà DN kiểm toán không thể kiểm tra được doanh thu, cũng không nhận được đủ các xác nhận công nợ phải thu từ khách hàng và cũng không thể sử dụng các biện pháp thay thế khác để kiểm tra, xác định tính trọng yếu của vấn đề. Ngoài ra, đối với DN có hàng tồn kho lớn mà DN kiểm toán không thể tham gia kiểm kê và bị hạn chế trong việc xác định giá trị hàng tồn kho, giá vốn hàng bán trong kỳ, thì khả năng từ chối đưa ra ý kiến là hoàn toàn có thể xảy ra, nếu kiểm toán viên không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán thay thế để có thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán.
Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược)
Được đưa ra trong trường hợp các vấn đề không thống nhất được với giám đốc là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các tài khoản tới mức độ mà kiểm toán viên cho rằng, ý kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để thể hiện mức độ và tính chất sai sót trọng yếu. Câu chữ thường sử dụng là "theo ý kiến của chúng tôi, vì ảnh hưởng trọng yếu của các vấn đề nêu trên, BCTC phản ánh không trung thực và hợp lý các vấn đề trọng yếu". Ví dụ, khi DN có một khoản vay lớn trong BCTC, nhưng vì một số lý do mà DN nhất định không ghi nhận trong sổ sách kế toán và không có chứng từ kế toán xác minh khoản nợ này.