Gần 4 thập kỷ hiện diện, khu vực doanh nghiệp FDI đã và đang đóng góp rất lớn vào những thành quả của Việt Nam, thưa ông?
Từ một nước đi sau trong thu hút FDI so với rất nhiều nước khác, Việt Nam đã thuộc nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới. Từ khi có mặt tại Việt Nam đến nay, doanh nghiệp FDI đã đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta.
Thặng dư thương mại từ khu vực FDI đã giúp Việt Nam duy trì nguồn thu ngoại tệ và dự trữ ngoại tệ, ổn định được tỷ giá, kiểm soát lạm phát hiệu quả. Đóng góp của khu vực này vào ngân sách nhà nước liên tục tăng, từ 77.000 tỷ đồng năm 2011 lên 260.875 tỷ đồng năm 2024, với tỷ trọng tương đối ổn định 13-15% và vượt khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Việt Nam muốn công nghiệp hóa thành công, trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại thì phải có ngành công nghiệp. Trong khi đó, khu vực FDI là xương sống của công nghiệp chế biến, chế tạo. Theo báo cáo về FDI vừa được Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) công bố, dù chỉ chiếm 8% về số lượng doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, nhưng khu vực FDI chiếm tới 56,3% tổng vốn đầu tư, tạo ra 62% tổng doanh thu và sử dụng gần 60% tổng lao động.
Doanh nghiệp FDI chi phối gần như tuyệt đối về doanh thu trong các ngành xuất khẩu chính như điện tử chiếm hơn 99%; da giày chiếm 83,4% và dệt may chiếm 61,6%. Họ cũng ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ then chốt như vận tải và logistics. Khu vực này còn đóng vai trò là “huyết mạch”, cung cấp vốn và tối ưu hóa chuỗi cung ứng, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành công nghiệp.
Với những đóng góp như vậy, chắc không cần thiết phải đặt câu hỏi, liệu FDI có phải là động lực tăng trưởng trong 5 năm tới hay không?
Không cần phải bàn cãi về vấn đề này, nhưng cần thiết phải có đánh giá toàn diện, đầy đủ về đóng góp của khu vực FDI vào sự phát triển kinh tế, xã hội, không chỉ có đóng góp vào ngân sách nhà nước, vào GDP, thu hút lao động, mà cả từ năng suất lao động, hiệu quả đầu tư, bảo vệ môi trường... đến chuyển giao công nghệ, liên kết với khu vực trong nước, từ đó định hướng thu hút FDI cho giai đoạn công nghiệp hóa tới.
Kể từ khi bắt đầu Đổi mới, chúng ta đã thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng mỗi giai đoạn có mục tiêu ngắn hạn riêng. Giai đoạn đầu, mục tiêu của Việt Nam là làm thế nào thu hút được số lượng FDI nhiều nhất có thể để tận dụng nguồn vốn, máy móc, công nghệ nhằm phát triển kinh tế. Sau quá trình tích lũy vốn, kinh nghiệm và doanh nghiệp trong nước lớn dần, Việt Nam bắt đầu thu hút FDI có chọn lọc.
Năm 2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 50/NQ-TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Cụ thể, chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu; ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Muốn phát triển bền vững, bắt buộc phải dựa vào doanh nghiệp trong nước. Nhiều ý kiến cho rằng, doanh nghiệp FDI đang “chèn ép” doanh nghiệp bản địa?
Bộ Công thương vừa công bố Bộ Chỉ số đánh giá kết quả thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA Index). Tham gia xây dựng FTA Index, chúng tôi nhận ra rằng, hoạt động của doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa khá độc lập với nhau. Trong đó, doanh nghiệp FDI tận dụng khá tốt 17 FTA giữa Việt Nam và các nền kinh tế, chủ động tìm hiểu, đặt ra chiến lược, kế hoạch và lộ trình cụ thể để đáp ứng các FTA, nên khai thác khá hiệu quả.
Kết quả của việc khai thác tốt thị trường FTA là khu vực FDI luôn xuất siêu. Năm 2024, Việt Nam thặng dư thương mại 24,77 tỷ USD là nhờ khu vực FDI xuất siêu 50,29 tỷ USD, còn doanh nghiệp nội địa nhập siêu 25,52 tỷ USD. Trong 7 tháng năm 2025, thặng dư thương mại 10,18 tỷ USD là nhờ FDI xuất siêu xuất siêu 26,78 tỷ USD, còn doanh nghiệp trong nước nhập siêu tới 16,6 tỷ USD.
Trong cùng một sân chơi bình đẳng là 17 thị trường FTA, rộng hơn là thị trường xuất khẩu toàn cầu, nhưng doanh nghiệp FDI xuất siêu còn doanh nghiệp nội địa nhập siêu thì không thể nói là có sự chèn ép hay lấn át.
Câu chuyện khác về FDI hay được nhắc đến là vấn đề sử dụng lao động, thưa ông?
Có tình trạng người lao động làm việc cho doanh nghiệp FDI đến 35 tuổi dễ bị mất việc, tỷ lệ người làm việc trên 40 tuổi rất ít. Nhưng đó chỉ là lao động phổ thông ở cấp thấp, còn lao động ở tầm trung ít có chuyện này. Nếu có, chỉ là người lao động cấp trung sau một thời gian làm việc, tích lũy đủ kinh nghiệm, tay nghề, có ít vốn liếng, sẽ tự nghỉ việc để khởi nghiệp.
Vấn đề lao động nên nhìn ở khía cạnh khác. Có khoảng 72% lao động trong khu vực FDI làm công việc giản đơn, chủ yếu là lắp ráp, vận hành máy móc. Với những công việc này, khi người lao động đã quá 35-40 tuổi, hiệu quả làm việc giảm xuống, không theo kịp với guồng máy, dây chuyền sản xuất, thì không phải doanh nghiệp FDI mà ngay cả doanh nghiệp nội địa cũng không muốn ký tiếp hợp đồng lao động.
Mục tiêu của doanh nghiệp là lợi nhuận, là hiệu quả, năng suất lao động, cạnh tranh không phải ở thị trường nội địa, mà trên cả sân chơi toàn cầu. Còn mục tiêu của người lao động là thu nhập, mà thu nhập phụ thuộc vào sản lượng, định mức, khối lượng công việc, đến khi không còn đủ sức để có thu nhập cao hơn thì người lao động cũng tự xin nghỉ việc để tìm kiếm việc làm mới.
Như vậy, ký tiếp hợp đồng lao động là quyền của chủ doanh nghiệp và người lao động, vấn đề là doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với người lao động sau nghỉ việc.
Nhưng thưa ông, hậu quả của việc lao động mất việc khi “trẻ đã qua, già chưa tới” rất nặng nề, tạo sức ép lớn đến việc bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng này?
Đây là trách nhiệm của Nhà nước, chứ không phải của doanh nghiệp. Nghị quyết 68/NQ-TW về phát triển doanh nghiệp tư nhân ra đời đặt ra nhiều mục tiêu, trong đó có mục tiêu có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2030. Số doanh nghiệp thành lập mới ra đời chính là nơi thu hút lao động rời khỏi doanh nghiệp FDI nói riêng, doanh nghiệp nói chung. Dù là lao động giản đơn, nhưng sau thời gian làm việc cho khu vực FDI, những lao động này đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm làm việc, đặc biệt là ý thức làm việc, trách nhiệm với công việc, kỹ năng làm việc chính là nguồn lực bổ sung có chất lượng cho doanh nghiệp mới thành lập.