Theo FAO, Trung Quốc được dự báo là nước sản xuất gạo lớn nhất trong niên vụ này, tiếp theo là Ấn Độ, Bangladesh, Indonesia, Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Philippines và Pakistan.
Riêng khu vực Đông Nam Á, ngoài Việt Nam, Myanmar, Malaysia, Timor-Leste, và Indonesia là những quốc gia xuất khẩu được dự báo có sản lượng sụt giảm, thấp hơn tiềm năng vốn có. Trong khi đó, xuất khẩu gạo của Thái Lan có thể vẫn ở gần mức 8,6 triệu tấn của năm 2023.
Đáng chú ý triển vọng xuất khẩu của Campuchia sẽ tăng, do nhu cầu xuyên biên giới mạnh mẽ từ Việt Nam để tiêu dùng nội địa và tái xuất khẩu. Theo đó, FAO dự báo sản lượng gạo của Campuchia sẽ tăng 1,8% lên 7,9 triệu tấn trong năm nay, trở thành nước sản xuất gạo lớn thứ 10 thế giới sau khi vượt qua Brazil và Nhật Bản vào năm ngoái.
"Tỷ lệ sử dụng gạo của thế giới trong niên vụ mới dự kiến tăng lên 531,4 triệu tấn, nguồn cung dồi dào giúp thúc đẩy tăng trưởng việc sử dụng gạo trong thực phẩm. Dù vậy, do sản lượng gạo cao kỷ lục nên dự trữ gạo toàn cầu trong niên vụ 2024-2025 sẽ tăng thêm 2,7%, lên mức cao nhất lịch sử là 205,1 triệu tấn. Tuy nhiên, không giống các niên vụ trước, dự trữ gạo sẽ ít tập trung hơn và tăng lên ở nước xuất khẩu lẫn nước nhập khẩu", báo cáo của FAO chỉ rõ.
FAO ghi nhận, giá gạo trên thị trường quốc tế đã dịu lại trong những tháng gần đây nhưng vẫn ở mức cao. Trong tháng 4, chỉ số giá gạo toàn cầu của FAO ở mức trung bình 137,3 điểm, giảm 2,7% so với cuối năm 2023 nhưng cao hơn 7,5% so với cuối năm 2022.
Theo Báo cáo Triển vọng Thực phẩm thế giới của FAO, công bố ngày 13/6, nhìn chung sản lượng gạo dự kiến tăng 0,6% lên 478,9 triệu tấn trong niên vụ 2024-2025, châu Á sẽ chiếm phần lớn mức tăng của sản lượng gạo toàn cầu.
Còn tại thị trường Việt Nam, khảo sát phiên đầu tuần ngày 17/6, giá lúa quanh mốc 7.400 -7.500 đồng/kg. giá gạo nguyên liệu IR 504 dao động quanh mốc 10.600 - 10.700 đồng/kg, giảm nhẹ 100 đồng; gạo thành phẩm IR 504 ở mức 12.750 - 12.850 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam có điều chỉnh giảm. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện ở mức 570 USD/tấn giảm 3 USD; gạo 25% tấm ở mức 549 USD/tấn giảm 3 USD; gạo 100% tấm giảm USD định ở mức 475 USD/tấn.
Ghi nhận tại các kho gạo ở Kiên Giang, kho mua chậm, giao dịch ít, thương lái mua cầm chừng. Các địa phương như Đồng Tháp, An Giang hiện nguồn gạo về chưa nhiều, giao dịch chậm, giá ổn định.