Thời tiết ngày càng cực đoan
Michael Mann, giáo sư khoa học trái đất và môi trường tại Đại học Pennsylvania cho biết: “Số lượng các hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra đồng thời mà chúng ta đang chứng kiến ở Bắc bán cầu dường như nhiều hơn bất cứ thứ gì ít nhất là trong trí nhớ của tôi”.
Trên toàn cầu, tháng 6 năm nay là tháng 6 nóng nhất trong 174 năm qua dựa vào dữ liệu được lưu giữ bởi Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia (NOAA). Đây là tháng 6 thứ 47 liên tiếp và là tháng thứ 532 liên tiếp có nhiệt độ trung bình trên mức trung bình của thế kỷ 20.
Lượng băng biển đo được trong tháng 6 cũng là lượng băng biển tháng 6 thấp nhất toàn cầu được ghi nhận, chủ yếu là do mực nước biển thấp kỷ lục ở Nam Cực.
Có 9 cơn bão nhiệt đới vào tháng 6, đây là những cơn bão có tốc độ gió lên tới khoảng 200 km/h và mức năng lượng lốc xoáy tích lũy (ACE) gần gấp đôi giá trị trung bình của các cơn bão trong tháng 6 giai đoạn 1991 - 2020.
Trong cả năm 2022, đã có 18 sự kiện thảm họa thời tiết và khí hậu riêng biệt làm thiệt hại hàng tỷ đô la, bao gồm bùng phát lốc xoáy, gió lớn, mưa đá, lốc xoáy nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán, sóng nhiệt và cháy rừng. Cho đến nay, đã có 12 thảm họa thời tiết và khí hậu làm thiệt hại hàng tỷ đô la vào năm 2023.
Paul Ullrich, giáo sư mô hình hóa khí hậu khu vực và toàn cầu tại Đại học California cho biết: “Năm nay gần như chắc chắn sẽ phá kỷ lục về số lượng các hiện tượng thời tiết cực đoan”.
Các nhà khoa học cho biết, sự nóng lên toàn cầu đang khiến các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt trở nên nghiêm trọng hơn.
“Nghiên cứu của riêng chúng tôi cho thấy rằng xu hướng quan sát được đối với các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt vào mùa hè kéo dài thường xuyên hơn - sóng nhiệt, lũ lụt - đang được thúc đẩy bởi sự nóng lên do con người gây ra”, giáo sư Michael Mann cho biết.
“Sự gia tăng về tần suất và cường độ của các đợt nắng nóng, lũ lụt và cháy rừng có thể là nguyên nhân trực tiếp gây ra biến đổi khí hậu. Thông qua việc phát thải khí nhà kính, chúng ta đã giữ nhiều nhiệt hơn ở gần bề mặt, dẫn đến nhiệt độ tăng lên, độ ẩm trong không khí nhiều hơn và bề mặt đất khô hơn. Các nhà khoa học vô cùng tin tưởng rằng tần suất và cường độ ngày càng tăng của các hiện tượng cực đoan là hậu quả trực tiếp của việc con người làm thay đổi hệ thống khí hậu”, giáo sư Paul Ullrich cho biết.
Giáo sư Paul Ullrich cho biết thêm, trong điều kiện El Nino mới xuất hiện gần đây, nhiệt độ được đẩy lên cao hơn trên toàn thế giới, làm gia tăng thêm nhiệt độ do khí thải nhà kính gây ra.
Sự kết hợp giữa biến đổi khí hậu do con người gây ra và El Nino đang “làm gia tăng một số sự kiện cực đoan này”.
Khi hiện tượng nóng lên toàn cầu và El Nino xảy ra đồng thời, “rất khó để phân biệt đâu chỉ là một sự kiện thời tiết hay nó là một phần của xu hướng lâu dài”, Timothy Canty, giáo sư khoa khoa học khí quyển và đại dương tại Đại học Maryland cho biết.
Nhưng điều rõ ràng là biến đổi khí hậu khiến khả năng xảy ra các hiện tượng thời tiết cực đoan cao hơn.
“Nhiệt độ cao hơn do biến đổi khí hậu là điều không thể chối cãi, và với mỗi nhiệt độ tăng lên, chúng ta đang nhân lên những thay đổi của mình khi hứng chịu một đợt nắng nóng cực độ. Ở những khu vực ẩm ướt hơn trên thế giới, bao gồm cả Đông Bắc Mỹ, chúng tôi dự kiến sẽ có nhiều mưa hơn và bão dữ dội hơn. Để tránh những thay đổi cực đoan hơn nữa, chúng ta cần vừa giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch vừa phải hành động để làm sạch bầu không khí bị ô nhiễm của chúng ta”, giáo sư Paul Ullrich cho biết.
Giảm khí thải nhà kính
Giáo sư Michael Mann cho biết chừng nào lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu còn tiếp tục tăng thì xu hướng thời tiết khắc nghiệt ngày càng thường xuyên hơn dự kiến sẽ tiếp tục.
Giảm lượng khí thải nhà kính thải vào khí quyển bằng cách đốt nhiên liệu hóa thạch sẽ giúp điều tiết các xu hướng thời tiết cực đoan.
“Tin tốt là nghiên cứu mới nhất cho thấy rằng sự nóng lên của bề mặt dẫn đến các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt hơn sẽ ổn định nhanh chóng khi lượng khí thải carbon giảm. Vì vậy, chúng ta có thể ngăn chặn tất cả những điều này trở nên tồi tệ hơn bằng cách nhanh chóng khử carbon cho nền kinh tế”, giáo sư Michael Mann cho biết.
Các nhà lãnh đạo chính phủ đã có thể đạt được tiến bộ thành công trong các cuộc khủng hoảng môi trường quốc tế trong quá khứ. Có một lộ trình để làm việc cùng nhau nhằm khắc phục các vấn đề môi trường theo cách có lợi cho tất cả mọi người.
“Việc giải quyết lỗ thủng tầng ozon đòi hỏi các chính phủ, nhà khoa học và doanh nghiệp phải hợp tác với nhau và Nghị định thư Montreal và các sửa đổi của nghị định đã rất thành công không chỉ đối với tầng ozon mà còn đối với khí hậu. Lỗ thủng tầng ozon đang dần hồi phục và nhờ những hành động được thực hiện vào những năm 1980, chúng ta đã tránh được tình trạng trái đất nóng lên thậm chí còn tồi tệ hơn, đồng thời chúng ta vẫn có máy điều hòa không khí và keo xịt tóc, điều dường như gây hoang mang nhất vào thời điểm đó”, giáo sư Timothy Canty cho biết.
Tuy nhiên, nếu các cá nhân và tổ chức không cam kết giảm mạnh lượng khí thải nhà kính, thì thời tiết khắc nghiệt này là điềm báo cho tương lai.