Động lực mới cho doanh nghiệp công nghệ cao

(ĐTCK) Dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi), dự kiến được Quốc hội thông qua vào chiều 10/12/2025, được kỳ vọng sẽ hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo động lực mới cho lĩnh vực công nghệ cao, góp phần giúp Việt Nam bứt phá về công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Ưu đãi cao nhất cho doanh nghiệp công nghệ cao để tạo đột phá và nâng trình độ công nghệ quốc gia

Hoàn thiện hành lang pháp lý cho công nghệ cao

Việt Nam đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ dựa vào yếu tố “chiều rộng” sang “chiều sâu”, hướng tới nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, bảo đảm phát triển bền vững trong bối cảnh mới; trong đó tập trung vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh và năng lượng mới.

Sau khi Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được Bộ Chính trị ban hành ngày 22/12/2024, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện nhằm hình thành “hạ tầng thể chế” cho phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó có việc sửa đổi Luật Công nghệ cao.

Mặc dù Việt Nam đã thu hút hơn 400 tỷ USD vốn FDI kể từ năm 1988 đến nay, nhưng phần lớn dòng vốn này vẫn tập trung vào lắp ráp, gia công với giá trị gia tăng thấp; các lĩnh vực công nghệ cao như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn, chưa đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số quốc gia.

Việc sửa đổi Luật Công nghệ cao lần này, theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển công nghệ cao phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và tháo gỡ vướng mắc, rào cản phát triển công nghệ cao sau 17 năm áp dụng Luật Công nghệ cao 2008.

Một số điểm mới đáng chú ý gồm: bổ sung quy định khuyến khích doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tham gia đầu tư, nghiên cứu và thương mại hóa công nghệ cao; khuyến khích viện nghiên cứu, trường đại học có hoạt động R&D phát triển doanh nghiệp công nghệ cao, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Đặc biệt, dự thảo ưu tiên các dự án FDI có chuyển giao công nghệ lõi và liên kết với doanh nghiệp nội địa nhằm nâng cao năng lực công nghệ quốc gia, tránh tình trạng FDI chỉ mang công nghệ cũ, tận dụng nhân công giá rẻ.

Dự thảo cũng phân loại doanh nghiệp công nghệ cao thành hai mức: mức 1 dành cho doanh nghiệp có nhà đầu tư trong nước chiếm trên 30% vốn, nhận chuyển giao công nghệ lõi ở mức “đổi mới và phát triển”, được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cao nhất (miễn 4 năm, giảm 50% trong 9 năm, thuế suất 10% trong 15 năm); mức 2 áp dụng cho hầu hết doanh nghiệp công nghệ cao còn lại (miễn thuế 2 năm, giảm 50% trong 4 năm, thuế suất 15%).

Ngoài ra, dự thảo đề xuất bãi bỏ giấy chứng nhận doanh nghiệp công nghệ cao, chuyển sang cơ chế tự đánh giá theo tiêu chí nhằm giảm thủ tục hành chính; bổ sung quy định về mô hình “đô thị công nghệ cao” để tạo không gian tập trung cho nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ cao, gắn với phát triển đô thị bền vững.

Theo ông Lê Quang Tùng, Bí thư Thành ủy Cần Thơ, việc sửa đổi toàn diện Luật Công nghệ cao là cấp thiết, bởi các địa phương rất quan tâm tới hiệu quả triển khai, thu hút nhà đầu tư và thúc đẩy chuyển giao, ứng dụng công nghệ cao. Bên cạnh đó, nội hàm các khái niệm “công nghiệp công nghệ cao” hay “công nghệ cao” vẫn chưa được làm rõ, gây khó khăn cho việc xác định và thu hút dự án đúng tính chất.

Từ đó, ông Tùng cho rằng, dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) cần có phạm vi bao quát để điều chỉnh các hoạt động mang tính công nghệ cao hoặc ứng dụng công nghệ cao, đặc biệt là các hoạt động có hiệu suất và hiệu quả đầu tư cao. Điều này sẽ giúp các địa phương có cơ sở vận dụng các cơ chế đặc thù nhằm thu hút các dự án phù hợp.

Cần minh bạch, thống nhất và hài hòa chính sách ưu đãi

Chính sách ưu đãi không chỉ mang ý nghĩa tài chính, mà là cam kết đồng hành của Nhà nước với doanh nghiệp công nghệ cao trong những lĩnh vực có rủi ro và chu kỳ đầu tư dài.

Mặc dù cơ bản đồng thuận với nội dung dự thảo Luật, nhiều đại biểu Quốc hội, chuyên gia kinh tế và lãnh đạo địa phương cho rằng, dự thảo cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng làm rõ các chính sách ưu đãi dành cho doanh nghiệp công nghệ cao nhằm phát huy hiệu quả, đồng thời bảo đảm sự hài hòa giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.

Khoản 2, Điều 18 Luật Công nghệ cao 2008 quy định: “Doanh nghiệp công nghệ cao được hưởng mức ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật về đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu”.

Tuy nhiên, dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) chỉ nêu khái quát rằng, doanh nghiệp công nghệ cao “được hưởng ưu đãi, hỗ trợ theo quy định của pháp luật”, bao gồm ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng và từ Quỹ hỗ trợ đầu tư.

Theo một số chuyên gia, cách diễn đạt này làm giảm tính cam kết của chính sách, khiến doanh nghiệp khó dự đoán môi trường đầu tư dài hạn. Chính sách ưu đãi không chỉ mang ý nghĩa tài chính mà còn thể hiện cam kết đồng hành của Nhà nước với doanh nghiệp công nghệ cao - lĩnh vực có chu kỳ đầu tư dài, rủi ro cao và đòi hỏi tầm nhìn chiến lược.

Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, trong báo cáo thẩm tra dự án Luật, nêu rõ dự thảo vẫn còn khoảng cách giữa tư duy định hướng và cơ chế thực thi, nhất là trong chính sách ưu đãi.

“Cơ quan soạn thảo cần kế thừa quy định hiện hành và thể hiện rõ mức ưu đãi cao nhất đối với doanh nghiệp công nghệ cao và doanh nghiệp công nghệ chiến lược. Điều này nhằm tạo đột phá cho phát triển công nghệ cao, nâng cao trình độ công nghệ theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW và cũng phù hợp với mục đích sửa Luật lần này”, bà Nguyễn Thanh Hải, Chủ nhiệm Ủy ban kiến nghị.

Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp công nghệ cao đang được hưởng ưu đãi ở mức cao nhất, như thuế thu nhập doanh nghiệp miễn 4 năm, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo, mức thuế suất 10% trong 15 năm, thậm chí cao hơn với các dự án đặc biệt. Nhưng dự thảo mới chỉ duy trì ưu đãi này cho doanh nghiệp mức 1, trong khi doanh nghiệp mức 2 chỉ được miễn 2 năm thuế, giảm 50% trong 4 năm và thuế suất nâng lên 15%.

Một số ý kiến tại Ủy ban lo ngại, quy định này có thể tạo sự phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và FDI. Doanh nghiệp FDI dù đáp ứng tiêu chí kỹ thuật nhưng do cơ cấu vốn 100% nước ngoài sẽ thuộc nhóm mức 2, đồng nghĩa bị siết ưu đãi.

Ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó Tổng giám đốc Dịch vụ Tư vấn thuế và pháp lý, Deloitte Việt Nam lưu ý, việc giảm ưu đãi có thể ảnh hưởng đến thu hút FDI, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh thu hút đầu tư công nghệ cao trên toàn cầu ngày càng khốc liệt và Việt Nam đặt mục tiêu thu hút 40 - 50 tỷ USD FDI mỗi năm đến 2030.

Nhấn mạnh Luật Đầu tư quy định nguyên tắc bảo đảm ưu đãi khi pháp luật thay đổi (không hồi tố), ông Tuấn đề nghị, cần có cơ chế chuyển tiếp rõ ràng, minh bạch để bảo đảm nhà đầu tư tiếp tục được hưởng ưu đãi như đã cam kết, tránh rủi ro chính sách làm xáo trộn môi trường đầu tư.

Về quy định bổ sung mô hình “đô thị công nghệ cao”, đại biểu Quốc hội Nguyễn Thanh Phương (đoàn Cần Thơ) cho rằng, cần thay đổi tư duy phát triển khu công nghệ cao theo hướng: khi doanh nghiệp thực sự mạnh về công nghệ cao đến đầu tư thì phải có chính sách ưu đãi rõ ràng.

“Chúng ta đón chào bằng ưu đãi về mặt bằng, hạ tầng… để họ vừa nghiên cứu, vừa sản xuất, vừa chuyển giao công nghệ. Cách làm này khả thi hơn việc đầu tư sẵn khu công nghệ cao nhưng không thu hút được doanh nghiệp”, ông Phương nói và dẫn lại thực tế Cần Thơ từng xây dựng khu công nghệ thông tin tập trung nhưng sau khi hoàn thiện vẫn chưa thu hút được doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, việc bỏ cơ chế cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp công nghệ cao và chuyển sang tự đánh giá là bước tiến trong cải cách thủ tục, nhưng cũng khiến nhà đầu tư lo ngại. Nếu tiêu chí không rõ ràng hoặc cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan, quyền lợi ưu đãi mà doanh nghiệp kỳ vọng có thể không được bảo đảm.

Hoặc điều khoản chuyển tiếp quy định doanh nghiệp chỉ được hưởng ưu đãi đến hết thời hạn giấy chứng nhận đầu tư hiện tại nhưng chưa nêu rõ chính sách sau thời điểm đó, khiến doanh nghiệp băn khoăn liệu các ưu đãi đã cam kết có được duy trì hay không.

Đại biểu Phạm Hùng Thái, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh đề nghị, Ban soạn thảo rà soát, thống nhất trong luật hệ thống chính sách ưu đãi dành cho công nghệ cao, khu công nghệ cao và đô thị công nghệ cao, bao gồm ưu đãi đất đai, thủ tục hành chính, tín dụng và hỗ trợ đầu tư hạ tầng.

Ông đồng thời đề nghị giao Chính phủ quy định chi tiết mức độ và hình thức ưu đãi, bảo đảm đồng bộ với các luật liên quan như Luật Đầu tư, Luật Đất đai và Luật Quy hoạch, nhằm tránh chồng chéo và tạo thuận lợi cho nhà đầu tư.

Minh Minh

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục