Thưa ông, quy mô ngoại thương của Việt Nam dự kiến vượt 900 tỷ USD vào cuối năm nay, xuất khẩu là trụ cột quan trọng của tăng trưởng. Ông đánh giá thế nào về vai trò của xúc tiến thương mại trong việc duy trì đà tăng này?
Quy mô ngoại thương ngày càng lớn, sắp chạm ngưỡng 1.000 tỷ USD, trong đó xuất khẩu sẽ đạt mốc 500 tỷ USD. Để sớm chinh phục các con số này, ngoài việc củng cố năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm các ngành hàng, doanh nghiệp chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng, thì công tác xúc tiến thương mại quốc gia có vai trò rất quan trọng.
Kết quả tăng trưởng xuất khẩu đạt 2 con số giai đoạn 2021-2025 là nền tảng vững chắc cho giai đoạn bứt phá 2026-2030. Tuy nhiên, ở giai đoạn chuyển giao, đánh dấu chuyển tiếp giữa hai kỳ kế hoạch trung hạn, cũng đòi hỏi một cách tiếp cận hoàn toàn mới về xúc tiến thương mại, qua đó mở đường cho hàng hóa, định hình chiến lược xuất khẩu của quốc gia.
Lâu nay, mạng lưới xúc tiến thương mại của Việt Nam bị đánh giá là còn thiếu gắn kết, chưa hiệu quả, thiếu cơ chế điều phối thống nhất. Những tồn tại này có được khắc phục trong thời gian tới không?
Như tôi đã nói, Việt Nam đã ở trong top 20 quốc gia quy mô thương mại lớn của thế giới, ngành sản xuất nội địa vẫn đón thêm dòng vốn FDI lớn, cùng với vốn đầu tư trong nước. Giai đoạn tới, xuất khẩu vẫn là trụ cột của tăng trưởng.
Để mở đường hiệu quả cho xuất khẩu tăng trưởng bền vững, đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao của các nhà mua hàng toàn cầu, công tác xúc tiến thương mại đứng trước yêu cầu chuyển đổi căn bản, từ mô hình xúc tiến truyền thống sang xây dựng một hệ sinh thái xúc tiến thương mại hiện đại, số hóa, liên thông và vận hành bằng dữ liệu, đa dạng cách thức xúc tiến thương mại. Không chỉ chủ động đi ra nước ngoài, chúng ta cần tăng mạnh tần suất các sự kiện triển lãm quốc gia được tổ chức ở trong nước, kéo các nhà mua hàng tới Việt Nam.
Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về việc tăng tần suất tổ chức các hội chợ quy mô lớn, kéo các nhà mua hàng/bán hàng tới Việt Nam?
Chúng ta vừa tổ chức xong sự kiện tầm cỡ Hội chợ Mùa Thu 2025, quy tụ 2.500 doanh nghiệp trong và ngoài nước. Sự kiện đã thành công vượt mong đợi, mang về doanh thu trên 1.000 tỷ đồng, với lượng khách tham quan, mua sắm trung bình 100.000 lượt mỗi ngày. Tổng giá trị giao dịch, hợp đồng và biên bản ghi nhớ ký kết trong khuôn khổ Hội chợ lên tới 5.000 tỷ đồng, góp phần thúc đẩy hợp tác, mở rộng chuỗi cung ứng và thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp Việt.
Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công thương tiếp tục triển khai mô hình này. Tới đây sẽ là Hội chợ Mùa Xuân 2026, sau đó là chuỗi hội chợ Mùa Thu, Mùa Đông 2026. Bộ Công thương cũng lập kế hoạch tổ chức chuỗi sự kiện/hội chợ trong vòng 5 năm tới, với các triển lãm chuyên ngành liên quan đến chuỗi giá trị.
Với hướng phát triển này, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ nổi lên như một trung tâm, một “hub” cho ngành công nghiệp hội chợ và dịch vụ xúc tiến thương mại, đầu tư khu vực.
Thị trường quốc tế ngày càng yêu cầu cao về chất lượng, chuỗi cung ứng phải xanh hơn, bền vững hơn. Hoạt động xúc tiến thương mại sẽ thay đổi ra sao để thích ứng, thưa ông?
Công tác xúc tiến thương mại sẽ được định hướng làm theo cụm ngành hàng, tập trung nguồn lực vào các cụm ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất để tạo hiệu ứng lan tỏa. Cùng với đó, xúc tiến thương mại sẽ hiệu quả hơn khi các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi xanh, bền vững, để có sản phẩm xanh, có năng lực cạnh tranh cao để xuất khẩu. Trong bối cảnh hiện nay, đây là yêu cầu và xu thế tất yếu của các thị trường nhập khẩu.
Việt Nam đã ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), nhưng thực tế tại nhiều thị trường lớn, hàng hóa Việt vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nên công tác xúc tiến nhằm đa dạng hóa thị trường vẫn được tiếp tục (tập trung vào Mỹ, EU, Canada, Trung Quốc, Trung Đông…), qua đó hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao hiệu quả khai thác FTA. Tăng kết nối doanh nghiệp với các khách hàng tại thị trường mới nổi như Nam Á, UAE, châu Phi, Mexico…, kết hợp củng cố mạng lưới xúc tiến thương mại quốc gia, chuẩn hóa mô hình trung tâm xúc tiến thương mại địa phương chuyên nghiệp, liên thông.
Để nâng cao năng lực xúc tiến thương mại, kinh phí cho hoạt động này cũng cần tăng lên. Ông có cho rằng, đây sẽ là trở ngại?
Việt Nam là quốc gia có nền ngoại thương phát triển, phụ thuộc vào xuất khẩu rất lớn. Nếu không thay đổi tư duy xúc tiến, tăng đầu tư cho các hoạt động này thì sẽ khó phát huy được sức mạnh, năng lực của nền ngoại thương. Chi phí cho xúc tiến thương mại cần phải tăng lên, đáp ứng các hoạt động xúc tiến trong bối cảnh mới.
Chúng ta nên coi những khoản chi phí cho xúc tiến thương mại là khoản đầu tư cần thiết, làm đòn bẩy cho hoạt động ngoại thương, nâng cao khả năng thích ứng của nền kinh tế, bảo vệ sản xuất trong nước, phát triển thị trường nội địa, giữ vững đà phục hồi, phát triển kinh tế bền vững.