
Khu vực tư nhân bước vào “giai đoạn 2.0”
Theo số liệu của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), trong 9 tháng đầu năm 2025, tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động đạt hơn 231.300 doanh nghiệp, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2024. Riêng số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đạt 145.000 doanh nghiệp. Cục Thống kê đánh giá, số lượng đăng ký doanh nghiệp thời gian qua tăng cao là nhờ động lực của Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân (với việc xác định khu vực kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia).
Ông Tim Evans, Tổng giám đốc Ngân hàng HSBC Việt Nam đánh giá, khu vực tư nhân từ chỗ “chớm nở” năm 1986 đến nay đã vươn lên trở thành động lực chính của nền kinh tế, đóng góp khoảng 50% GDP và tạo việc làm cho 82% lực lượng lao động, khẳng định vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển của Việt Nam.
Ông Tim Evans gọi đây là “Việt Nam 2.0” - giai đoạn khu vực tư nhân sẽ trở thành động lực then chốt đưa nền kinh tế tiến lên tầm cao mới, giai đoạn doanh nghiệp trong nước không chỉ phát triển thị trường nội địa mà còn vươn ra thế giới.
Nhìn lại quá trình Đổi Mới từ năm 1986 đến nay, quy mô GDP của Việt Nam đã tăng 60 lần và trong gần bốn thập kỷ qua, nhiều thương hiệu Việt đã vươn tầm quốc tế. Trong đó, thương hiệu Vinamilk ra đời từ năm 1976, hiện đã khẳng định vị thế hàng đầu trong ngành sữa Việt Nam và xuất khẩu ra nhiều thị trường quốc tế. Hay Tập đoàn Masan gây ấn tượng khi sản phẩm đã có mặt trong hầu hết gian bếp của mọi gia đình người Việt. Những ví dụ này đều cho thấy năng lực xây dựng thương hiệu mạnh mẽ của doanh nghiệp trong nước.
“Việt Nam đang sở hữu môi trường kinh doanh thuận lợi, niềm tin của nhà đầu tư, cùng lợi thế về nguồn nhân lực chất lượng cao, hạ tầng ngày càng hoàn thiện và xu hướng gia tăng doanh nghiệp tham gia thị trường vốn quốc tế sẽ là sức bật để vươn mình”, ông Tim Evans đánh giá.
Nhưng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động nhanh và khó lường, không còn cách nào khác, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam cần chủ động thay đổi và thích ứng để duy trì sức cạnh tranh. Việc đa dạng hóa thị trường, đổi mới, sáng tạo và hướng tới phát triển bền vững không còn là lựa chọn, mà đã trở thành yêu cầu sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.
Cùng với việc duy trì sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân cần tìm cách để tự nâng tầm và vươn lên trong chuỗi giá trị toàn cầu. Giới chuyên gia luôn nhấn mạnh, doanh nghiệp cần xác định cho mình hướng đi riêng, đầu tư mạnh cho nghiên cứu và phát triển sản phẩm tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường, nhất là với những sản phẩm xuất khẩu ngày càng có nhiều quy định ngặt nghèo.
Song song đó, chuyển đổi số cũng cần coi là chiến lược trọng tâm, giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất, giảm chi phí và mở rộng thị trường. Chuyển đổi số phải được triển khai toàn diện trong mọi khâu hoạt động, từ sản xuất, vận hành đến chăm sóc khách hàng. Doanh nghiệp nếu biết khai thác dữ liệu hiệu quả, tối ưu quy trình chắc chắn sẽ có lợi thế cạnh tranh vượt trội hơn trong kỷ nguyên số.
Cần hợp lực để nâng tầm
Điều quan trọng hiện nay là phải thay đổi nhận thức về kinh tế tư nhân, từ đó thể chế hóa rõ ràng trong Hiến pháp và các đạo luật.
Ông Phan Đức Hiếu, Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội
Bà Nguyễn Thị Minh Giang, CEO, Nhà sáng lập Newing cho rằng, một đối tượng cần đặc biệt quan tâm là các doanh nghiệp “no name”, tức những doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ (SME) chưa có tên tuổi trên thị trường. Hiện tại, hơn 97% doanh nghiệp Việt Nam đang thuộc nhóm SME, nhưng hầu hết nhóm này đang gặp bế tắc: một là đi ngang, hai là có cơ hội nhưng thiếu nguồn lực để bứt phá như các tập đoàn lớn.
“Chính các doanh nghiệp nhỏ mới là lực lượng có thể tạo nên đột phá cho phát triển kinh tế đất nước, phù hợp với định hướng chiến lược của Chính phủ về một kỷ nguyên vươn mình của khu vực tư nhân”, bà Giang nói.
Bà cũng khẳng định, các doanh nghiệp “no name” rất cần sự hỗ trợ, dẫn đường từ các doanh nghiệp lớn, cần sự hợp lực giữa các doanh nghiệp với nhau để cùng nâng tầm và đồng hành phát triển.
Về câu chuyện hợp tác, liên kết doanh nghiệp, bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc Văn phòng Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) chia sẻ, trong môi trường cạnh tranh hiện nay, nếu chỉ nhìn về cơ hội trong phạm vi của một doanh nghiệp thì vẫn là câu chuyện “mỗi người tự lo”. Tuy nhiên, cơ hội để làm những việc lớn hơn, có giá trị hơn thì không một doanh nghiệp nào có thể tự mình thực hiện được.
Bà Thuỷ lấy ví dụ, những mục tiêu như xây dựng nền công nghiệp phụ trợ vững mạnh, hay nâng cao sức chống chịu trước các cú sốc kinh tế toàn cầu đều là những vấn đề vượt ra ngoài khả năng của một doanh nghiệp đơn lẻ. Chính vì vậy, kỳ vọng về một mô hình hợp tác mới, nơi các doanh nghiệp có thể liên kết, chia sẻ nguồn lực và cùng tạo ra giá trị chung đang ngày càng trở nên cấp thiết.
Mô hình Toàn cảnh Kinh tế tư nhân Việt Nam (ViPEL) ra đời trong tháng 9/2025 dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đã đặt ra câu chuyện các doanh nghiệp tư nhân cần sự bắt tay, hợp tác chặt chẽ với nhau lên trên hết, bất kể là trong các ngành hay lĩnh vực khác nhau.
Theo bà Thuỷ, đã đến thời điểm chín muồi để mô hình ViPEL ra đời, là khi những người lãnh đạo cấp cao nhất của đất nước đồng lòng khơi dậy khát vọng phát triển và tinh thần tự cường dân tộc.
“Rất nhiều người có niềm tin vào vận nước, từ đó quyết tâm dấn thân. Đến hiện tại, rất nhiều doanh nhân không chỉ lo cho chính mình, lo cho lợi ích riêng, mà quyết tâm dấn thân vào bài toán tương lai của đất nước. Khi cùng nhau nhìn nhận những mục tiêu mang tầm quốc gia, rồi quay trở lại với những kế hoạch cụ thể của từng doanh nghiệp, họ đều thấy rằng đã đến lúc phải hành động. Hành động ấy cần được thực hiện với tinh thần quyết tâm cao độ, song song với những tính toán chi tiết, bài bản, thay vì chỉ dừng lại ở kỳ vọng hay khẩu hiệu”, bà Thuỷ bày tỏ.
Không chỉ là câu chuyện hợp tác giữa các doanh nghiệp tư nhân tư nhân với nhau, mà các doanh nghiệp tư nhân cũng rất cần sự phối hợp từ khu vực công trên tinh thần “công - tư cùng kiến tạo”.
Giám đốc Ban IV nhấn mạnh, điều doanh nghiệp mong muốn không phải là những cơ chế “xin - cho”, vốn là rào cản trong nhiều năm trước đây, mà là một mô hình hợp tác thực chất, nơi Nhà nước và doanh nghiệp cùng tham gia vào quá trình hoạch định và triển khai chiến lược phát triển. Doanh nghiệp kỳ vọng được cùng Nhà nước thiết kế chiến lược những chương trình, dự án, chính sách có tính khả thi cao, để các cơ hội quốc gia không chỉ nằm trên giấy, mà được cụ thể hóa thành hành động và kết quả thực tế.
Ông Phan Đức Hiếu, Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội cũng cho rằng, điều quan trọng hiện nay là phải thay đổi nhận thức về kinh tế tư nhân, từ đó thể chế hóa rõ ràng trong hiến pháp và các đạo luật.
Cùng với đó, Nhà nước cần mở rộng tối đa quyền tự do kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính và bảo vệ chắc chắn quyền tài sản của doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật phải thực sự tạo niềm tin để nhà đầu tư an tâm bỏ vốn, phát triển dài hạn. Đồng thời, chính sách ưu đãi đầu tư cần có mục tiêu rõ ràng, tránh dàn trải và bảo đảm công bằng giữa các thành phần kinh tế
Đặc biệt, để khu vực tư nhân phát triển vững mạnh, Nhà nước cần duy trì đối thoại thường xuyên với doanh nghiệp, kịp thời điều chỉnh chính sách phù hợp thực tiễn. Việc tôn vinh doanh nhân, lan tỏa tinh thần khởi nghiệp, khuyến khích đổi mới sáng tạo cũng là giải pháp quan trọng nhằm khơi dậy khát vọng cống hiến và nâng cao vị thế doanh nghiệp Việt.