Sáng nay (23/10), Quốc hội nghe Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Lê Minh Trí trình bày Tờ trình dự án Luật Phá sản (sửa đổi).
Theo tờ trình của Chính phủ, Luật Phá sản năm 2014 đã khắc phục một số bất cập, hạn chế của Luật Phá sản năm 2004. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, kết quả tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2014 cho thấy còn nhiều điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản, nhu cầu giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã không ít nhưng kết quả giải quyết chưa nhiều, thời gian giải quyết một vụ việc phá sản kéo dài, ảnh hưởng đến kết quả thu hút đầu tư vào Việt Nam...
Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định còn vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; tháo gỡ những điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản; tạo hành lang pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp, hợp tác xã phục hồi hoạt động kinh doanh; tuyên bố phá sản và thanh lý kịp thời những doanh nghiệp, hợp tác xã không còn khả năng phục hồi, khơi thông nguồn lực, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh; góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia…
Một trong những nội dung đang gây tranh cãi trong dự thảo là chi phí phục hồi, phá sản, tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản.
Theo Chính phủ, thực tiễn giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã cho thấy, một trong những điểm nghẽn lớn nhất dẫn tới trì trệ vụ việc là vấn đề tạm ứng chi phí phá sản, chi trả chi phí phá sản trong những trường hợp không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tiền, tài sản để nộp hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã còn tài sản nhưng không thể bán để bảo đảm chi phí phá sản. Về nội dung này, đang có hai quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, quy định tạm ứng chi phí phá sản, nguồn chi trả chi phí phá sản trong trường hợp trên do ngân sách nhà nước bảo đảm. Kinh phí chi trả chi phí phá sản trong trường hợp này sẽ được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm của Tòa án.
Quan điểm thứ hai cho rằng, tạm ứng chi phí phá sản, nguồn chi trả chi phí phá sản trong trường hợp trên được bảo đảm thông qua Quỹ Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ và các Quỹ khác theo quy định của pháp luật có nội dung hỗ trợ doanh nghiệp.
Tòa án nhân dân tối cao nhất trí và thể hiện dự thảo Luật theo quan điểm thứ nhất.
Về nội dung này, đại diện cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính (UBKTTC) cho biết, đa số ý kiến thành viên UBKTTC nhất trí với quy định về kinh phí chi trả chi phí phá sản như đề xuất của Cơ quan trình, theo đó kinh phí chi trả chi phí phá sản được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm của Tòa án trong trường hợp không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tiền, tài sản để nộp hoặc còn tài sản nhưng không thể bán để bảo đảm chi phí phá sản.
Việc dự toán, quản lý, sử dụng, tạm ứng, thanh toán kinh phí được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật về chi phí tố tụng. Tiền tạm ứng chi phí phá sản trong trường hợp này sẽ được hoàn trả ngay vào ngân sách nhà nước khi bán được tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Một bổ sung quan trọng nữa của dự thảo luật là các quy định về các nguyên tắc và chính sách của Nhà nước trong phục hồi, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, cụ thể là về chính sách hỗ trợ thuế, tín dụng, lãi suất, tài chính, đất đai và các biện pháp hỗ trợ khác cho doanh nghiệp, hợp tác xã gặp khó khăn trong kinh doanh... Các quy định nhằm nắm bắt các cơ hội, khắc phục hoặc giúp doanh nghiệp, hợp tác xã rút lui khỏi thị trường một cách có trật tự, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, lành mạnh hóa nền kinh tế.
Với nội dung này, cơ quan thẩm tra cho biết, một số ý kiến đề nghị nghiên cứu quy định tại dự thảo Luật theo hướng Nhà nước sẽ giãn, hoãn các loại thuế cho doanh nghiệp, hợp tác xã nợ thuế trong giai đoạn thực hiện phục hồi hoặc trong thời hạn nhất định kể từ ngày Tòa án công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh có hiệu lực.
Tuy nhiên, một số ý kiến khác đề nghị cân nhắc quy định tiêu chí, căn cứ, cơ sở để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã đủ điều kiện phục hồi và trách nhiệm của các chủ thể tham gia phục hồi, tránh tình trạng lợi dụng kéo dài thời gian phục hồi, tăng thêm thiệt hại cho các bên có liên quan so với việc cho áp dụng ngay thủ tục phá sản.