Theo dự thảo, đối tượng áp dụng gồm tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân đang được Nhà nước cho thuê đất trực tiếp theo quyết định/hợp đồng/giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới hình thức trả tiền thuê đất hằng năm (gọi là người thuê đất).
Quy định này áp dụng cho cả trường hợp người thuê đất không thuộc đối tượng được miễn, giảm tiền thuê đất, và trường hợp người thuê đất đang được giảm tiền thuê đất theo quy định.
Hai mức giảm tiền thuê đất đang được đề xuất tại dự thảo. Phương án 1 là giảm 15% và phương án 2 là giảm 30% tiền thuê đất phải nộp của năm 2024 đối với người thuê đất. Mức giảm tiền thuê đất được tính trên số tiền thuê đất phải nộp của năm 2024. Không thực hiện giảm trên số tiền thuê đất còn nợ của các năm trước năm 2024 và tiền chậm nộp (nếu có).
Trường hợp người thuê đất đang được giảm tiền thuê đất theo quy định hoặc/và khấu trừ tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng thì mức giảm tiền thuê đất được tính trên số tiền thuê đất phải nộp (nếu có) sau khi đã được giảm hoặc/và khấu trừ.
Liên quan đến hồ sơ giảm tiền thuê đất, Bộ Tài chính có đề xuất nhằm đơn giản thủ tục hành chính, hạn chế tình trạng xin cho khi phải đi xin xác nhận của cơ quan nhà nước có thầm quyền.
Cụ thể, cơ quan này trình Chính phủ thành phần hồ sơ chỉ gồm 2 loại văn bản. Một là giấy đề nghị giảm tiền thuê đất năm 2024 của người thuê đất. Hai là quyết định cho thuê đất/hợp đồng thuê đất/giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (bản sao).
Bộ Tài chính cho biết, dự kiến số tiền thuê đất giảm theo dự thảo Nghị định trong khoảng từ 2.000 - 4.000 tỷ đồng.