Hoàn thiện pháp luật về cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu còn chậm, là nhận xét được nêu tại báo cáo thẩm tra về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về giám sát chuyên đề, chất vấn và nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến hết Kỳ họp thứ tư.
Nội dung này được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến sáng 18/9, trong phiên họp thứ 26 (đợt hai).
Trình bày báo cáo thẩm tra của các cơ quan Quốc hội, về lĩnh vực ngân hàng, Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Thị Thúy Ngần cho biết, các nội dung yêu cầu tại Nghị quyết số 134/2020/QH14 và Nghị quyết số 62/2022/QH15 cơ bản đã được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ.
Trong đó, các giải pháp thu hút ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước được triển khai tích cực. Các hoạt động thanh tra, giám sát được tăng cường, đổi mới. Xử lý có hiệu quả vấn đề sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các tổ chức tín dụng. Kết quả xử lý nợ xấu đạt kết quả tích cực. Tín dụng tăng trưởng khá hợp lý, chất lượng tín dụng được cải thiện.
Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật về cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu còn chậm. Thiếu chính sách ưu đãi, khuyến khích nhà đầu tư tham gia xử lý tài sản bảo đảm và mua bán nợ xấu. Việc tìm kiếm, đàm phán ngân hàng thương mại nhận chuyển giao bắt buộc đối với ngân hàng yếu kém còn gặp nhiều khó khăn – bà Ngần nêu.
Phát biểu sau đó, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, an ninh Lê Tấn Tới băn khoăn, hiện nay còn tình trạng sở hữu chéo không và điều này có tác động đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế hiện nay hay không?
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế (cơ quan thẩm tra Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi) Vũ Hồng Thanh đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nói thêm vấn đề Chủ nhiệm Tới quan tâm.
Ông Thanh cho biết thêm là qua thẩm tra thì sở hữu chéo đã được kiểm soát tốt, vi phạm đã xử lý rồi, nhưng cơ chế để xử lý dứt điểm các cổ đông lớn thao túng, chi phối hoạt động ngân hàng còn nhiều ý kiến khác nhau. Giảm tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng hay tỷ lệ sở hữu cổ phần có xử lý dứt điểm được sở hữu chéo hay không còn chưa khẳng định được, bởi mở rộng hơn hay thu hẹp hơn đều có ảnh hưởng đến thu hút đầu tư nước ngoài, đến sự phát triển của nền kinh tế.
Với nợ xấu, ông Thanh cho hay, từ 15/8/2017 (thời điểm Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu có hiệu lực) đến 28/8/2023 được hơn 400.000 tỷ. Tuy nhiên nợ xấu có xu hướng tăng, nợ xấu nội bảng đến 3,36%, vậy luật xử lý thế nào, luật hóa quy định của nghị quyết 42 ra sao vẫn còn các luồng ý kiến khác nhau, ông Thanh nói.
Báo cáo giải trình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng khẳng định thẩm tra của các cơ quan Quốc hội đã đánh giá khách quan công tâm với hoạt động của ngân hàng. Với các hạn chế như việc hoàn thiện pháp luật về cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu còn chậm, bà Hồng cho biết Chính phủ chỉ đạo ngân hàng Nhà nước tích cực giải quyết.
Theo Thống đốc, vấn đề sở hữu chéo, thao túng, sân trước sân sau trong lĩnh vực ngân hàng là vấn đề Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ rất quan tâm và yêu cầu Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện văn bản quy định của pháp luật cũng như khi triển khai trong thực tiễn để khắc phục.
“Trên hồ sơ thì sở hữu chéo giữa các ngân hàng đến nay đã được khắc phục. Tức là trên hồ sơ cá nhân, tổ chức nào giữ tỷ lệ cổ phần như thế nào đối với hệ thống ngân hàng qua hoạt động cho vay đã thể hiện”, bà Hồng nói. Tuy nhiên, theo Thống đốc, thực tế, các tổ chức, cá nhân có thể đứng tên hoặc nhờ đứng tên sở hữu cổ phần, thậm chí thành lập doanh nghiệp trong hệ sinh thái để cho vay vốn ngân hàng. Vấn đề này qua điều tra và một số vụ việc vừa qua phát hiện. “Cho nên đây là vấn đề Ngân hàng Nhà nước rất quan tâm”, bà Hồng nhấn mạnh.
Thống đốc cũng thông tin, trong dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng, việc khắc phục tình trạng sở hữu chéo, thao túng ngân hàng cũng là vấn đề trọng tâm. Dự thảo cũng đã thiết kế một số giải pháp giảm hiện tượng sở hữu chéo như mở rộng phạm vi khái niệm có liên quan, giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần tại các tổ chức tín dụng, giảm giới hạn cấp tín dụng. Song, trong quá trình lấy ý kiến cũng còn ý kiến khác nhau như ông Vũ Hồng Thanh nêu.
“Tuy nhiên, nếu chờ quy định xử lý triệt để vấn đề sở hữu chéo thì không có”, bà Hồng nêu và cho rằng, quy định như dự thảo luật chỉ là một phần, cần phải kết hợp với các quy định khác để làm sao hoạt động của các tổ chức, cá nhân minh bạch thì mới hướng tới giảm tình trạng này.
Vẫn theo Thống đốc thì còn phụ thuộc vào vấn đề thực thi. “Quy định như vậy, nhưng doanh nghiệp người dân phải tuân thủ, nếu cố tình nhờ đứng tên thì không xử lý được. Đó là thực tế, khi cố tình nhờ đứng tên thì chỉ có cơ quan điều tra phát hiện như một số vụ vừa qua”, bà Hồng nêu thực tế.
Với lo ngại quy định trong luật tác động tới thị trường chứng khoán, tăng chi phí, thủ tục, bà Hồng cho rằng, vấn đề ưu tiên khi xây dựng luật là đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Do đó, việc phân tích đánh giá tác động cần bức tranh lớn hơn đó là vai trò của tổ chức tín dụng, ngân hàng trong nền kinh tế.
Về vấn đề nợ xấu, bà Hồng cũng nêu thực tế trong bối cảnh hiện nay nợ xấu tăng lên. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sử dụng biện pháp tiếp tục xử lý nợ xấu theo quy định của pháp luật.
Tại báo cáo, Chính phủ cho biết, đối với các ngân hàng được kiểm soát đặc biệt, đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã trình và được cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương chuyển giao bắt buộc đối với 4 ngân hàng. Hiện nay, Ngân hàng nhà nước đang chỉ đạo các bên liên quan thực hiện các nội dung tiếp theo để trình Chính phủ phê duyệt phương án cơ cấu lại các ngân hàng này theo trình tự, thủ tục quy định. Đối với NHTMCP Sài Gòn (SCB), trên cơ sở báo cáo đánh giá tổng thể thực trạng và đề xuất chủ trương cơ cấu lại SCB của SCB và Ban kiểm soát đặc biệt SCB, Ngân hàng Nhà nước đã trình Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương cơ cấu lại SCB theo quy định.
Theo báo cáo của Chính phủ, đến cuối tháng 7/2023 tín dụng đối với lĩnh vực chứng khoán chiếm tỷ trọng 0,55% tổng dư nợ nền kinh tế, tăng 62% so với cuối năm 2022, trong đó dư nợ tập trung để đầu tư, kinh doanh chứng khoán ít rủi ro (chủ yếu là trái phiếu Chính phủ) chiếm 82,7%tổng dư nợ chứng khoán và tăng 4 72,7%so với cuối năm 2022. Tín dụng lĩnh vực bất động sản tăng 4,99% so với cuối năm 2022, chiếm 21,73% tổng dư nợ nền kinh tế.