Trong 11 thương vụ mà Đầu tư ghi nhận được trong hoạt động đầu tư có tính chiến lược của các nhà đầu tư nước ngoài vào ngân hàng nội sau năm 2008 - thời điểm khủng hoảng tài chính thế giới - có những đặc điểm khá riêng so với giai đoạn trước. Cụ thể, các đối tác ngoại hầu hết là các định chế tài chính có hiện diện kinh doanh tại Việt Nam khá hẹp, thậm chí là những tổ chức thuần túy đầu tư tài chính dài hạn. Đồng thời, có những đối tác chiến lược cũ đang rút các khoản đầu tư của mình, thay thế vào đó là những đối tác khác, đáng kể đến là sự lên ngôi của các định chế tài chính đến từ Nhật Bản so với các tổ chức tài chính Âu – Mỹ.
Hai thương vụ có giá trị đầu tư lớn nhất đến thời điểm này là Bank of Tokyo – Mitsubishi mua 20% cổ phần của Vietinbank có giá trị 743 triệu USD (2013), tiếp đó là Mizuho Corperate Bank vào Vietcombank với giá trị hơn 576 triệu USD (2012) với cả 2 đối tác đều đến từ Nhật Bản. Những thương vụ cũng khá nổi bật khác là Commonweath Bank (Úc) đầu tư 60 triệu USD vào VIB (2011), hay như Công ty Tài chính quốc tế (IFC) đầu tư hơn 40 triệu USD vào AnBinh Bank (2011)… Chỉ có duy nhất một ngân hàng đến từ Pháp là BNP Paribas đầu tư vào OCB (2009).
Nếu nhìn vào giai đoạn 2005-2008, hoạt động thu hút đối tác chiến lược diễn ra sôi động và đa dạng hơn rất nhiều. Có thể kể tới nhiều thương vụ khá lớn thời điểm đó như ANZ mua 10% cổ phần Sacombank (2005), Standard Chartered mua 9% cổ phần ACB (2005), HSBC mua 10% cổ phần Techcombank (2005) và sau đó tăng lên 20%, OCBC mua 10% cổ phần VP (6/2006) và tăng tỷ trọng lên 15%, Societe General mua 20% của Seabank (2008)….
Giải thích về sự khác nhau này, theo một chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng, giai đoạn 2005-2008, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và được đánh giá là thị trường hấp dẫn với các định chế tài chính nước ngoài. Tuy nhiên, theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, hoạt động của ngân hàng ngoại tại Việt Nam chưa được mở cửa hoàn toàn. Để gia nhập thị trường, các ngân hàng ngoại chỉ có chủ yếu 3 phương cách là mở văn phòng đại diện, mở chi nhánh tại Việt Nam và đầu tư chiến lược vào các ngân hàng nội.
Do vậy, một số ngân hàng quy mô cấp toàn cầu hoặc khu vực như HSBC, ANZ, Standard Chartered,… thậm chí sử dụng tất cả các cách để tối đa hóa sự hiện diện tại Việt Nam.
Cũng theo vị chuyên gia này, phương thức đầu tư vào ngân hàng nội với tỷ lệ hạn chế 10% thời điểm đó, mặc dù không có nhiều ý nghĩa bởi tỷ lệ biểu quyết thấp vẫn được nhiều ngân hàng ngoại ưu tiên chọn. Lý do là bởi song song với việc đầu tư là việc được phép đưa đại diện vào hội đồng quản trị ngân hàng nội.
“Lợi ích mềm nhiều khi lại lớn hơn số tiền mà nhà đầu tư ngoại đầu tư, việc hiện diện ở cơ quan ra quyết định tối cao mỗi ngân hàng nội cho phép các nhà đầu tư ngoại tiếp cận nhanh chóng nhất kinh nghiệm, tập quán kinh doanh của khách hàng Việt Nam”, vị chuyên gia trên cho biết.
“Các ngân hàng nội cũng dễ chấp nhận đầu tư bởi được bổ sung nguồn vốn lớn do bán cổ phần với giá tốt, không bị can thiệp vào quyền tự chủ, và đặc biệt không có mâu thuẫn lợi ích kinh doanh do các ngân hàng ngoại bị hạn chế hiện diện”.
Việc thông qua ngân hàng nội để “đào tạo” nhân sự có thể thấy khá rõ qua khoản đầu tư của HSBC vào Techcombank. Đương kim CEO của HSBC Việt Nam chính là nguyên ủy viên HĐQT Techcombank, đại diện phần góp vốn và nhiều năm chịu trách nhiệm trực tiếp phát triển mảng khách hàng cá nhân tại Techcombank.
Theo TS Nguyễn Chí Hiếu, chuyên gia ngân hàng thì hiện tại việc lựa chọn đối tác chiến lược đang khó hơn rất nhiều kể từ cả hai phía. Về phía ngân hàng ngoại sau cuộc khủng hoảng tài chính, rất nhiều ngân hàng phải thu hẹp quy mô hoạt động trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Về phía ngân hàng nội thì ngoài vấn đề giá bán cổ phần bao nhiêu đã quan tâm hơn nhiều yếu tố hỗ trợ kỹ thuật, quản trị từ đối tác ngoại, và đặc biệt là không mâu thuẫn lợi ích.
“Nhiều nhà đầu tư ngoại trước đó cũng rút dần các khoản đầu tư của mình do điều kiện kinh doanh đã thay đổi, mục tiêu đầu tư đã đạt được”, TS. Hiếu cho biết. “Đây cũng là việc bình thường bởi dù đầu tư chiến lược, nhưng không có nghĩa là đầu tư ‘trọn đời’, thỏa thuận dài nhất thường cũng chỉ là 5 năm”.
Trong 3 năm gần đây, với sự xuất hiện của các gương mặt mới, thì nhiều gương mặt cũ đã rút đi như OCBC thoái toàn bộ vốn tại VPBank, ANZ cùng với giấy phép được mở ngân hàng con 100% vốn tại Việt Nam sau đó đã chuyển nhượng toàn bộ phần góp vốn của mình tại Sacombank cho Eximbank…
Mở rộng ra ngoài lĩnh vực ngân hàng có nhiều thương vụ thoái vốn khá “đình đám” như HSBC chuyển nhượng toàn bộ phần góp của mình tại Tập đoàn Bảo Việt cho Sumitomo, đối tác chiến lược Orchid Capital Investments Pte Ltd thoái hơn 10% vốn của mình khỏi FPT…
Đối với lĩnh vực ngân hàng, theo đánh giá chung, việc cho phép các ngân hàng ngoại hiện diện đầy đủ tại Việt Nam theo hình thức lập ngân hàng con 100% vốn tại Việt Nam chắc chắn sẽ khiến các đối tác ngoại phải xem xét lại kế hoạch góp vốn của mình. Lý do là để tránh mâu thuẫn lợi ích, và cũng để tránh những rắc rối liên quan tới cụm từ “sở hữu chéo” mà Ngân hàng Nhà nước đang tăng cường kiểm soát.
Đặc biệt với trường hợp HSBC tại Việt Nam, khi môi trường kinh doanh ngày càng dễ thở cho đối tác ngoại, NHNN siết chặt sở hữu chéo giữa các ngân hàng, thì câu hỏi đặt ra là liệu HSBC có còn mặn mà trong việc giữ vốn của mình tại Techcombank hay không khi HSBC vừa có động thái đầu tư mạnh mẽ cho ngân hàng con của mình là HSBC Việt Nam với việc tăng vốn từ 4.000 tỷ đồng lên 7.000 tỷ đồng đầu năm 2014, và mới đây nhất tại ĐHCĐ Techcombank, HSBC đã không đề cử đại diện tham gia HĐQT?