Chuyên gia đề cập 4 nhóm vấn đề trọng tâm trong phát triển công nghệ tài chính và tài sản số

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Để công nghệ tài chính và tài sản số phát triển bền vững, cần một cách tiếp cận toàn diện, đồng thời xử lý các vấn đề từ thể chế tới hạ tầng và nguồn nhân lực.
Chuyên gia đề cập 4 nhóm vấn đề trọng tâm trong phát triển công nghệ tài chính và tài sản số

Tại phiên họp chuyên đề Ủy ban I về công nghệ tài chính và tài sản số ngày 30/9 do Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Tư nhân (Ban IV) tổ chức, TS. Trần Quý, Viện trưởng Viện Phát triển Kinh tế Số Việt Nam cho biết, thời gian qua ông đã tham dự ba dự thảo luật đang trong quá trình hoàn thiện, bao gồm: Khung kiến trúc Chính phủ điện tử; dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo (AI); và dự thảo Luật Chuyển đổi số. Từ thực tế trên, ông Quý đã đưa ra bốn nhóm vấn đề trọng tâm cần được quan tâm trong lĩnh vực này.

Nhóm thứ nhất liên quan đến dư địa phát triển.

Bài toán đầu tiên là hoàn thiện khung pháp lý nhằm hỗ trợ các nhà kiến tạo. Theo ông Quý, thách thức hiện nay không nằm ở công nghệ mà chủ yếu xuất phát từ thể chế - yếu tố đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế số.

Trong suốt bốn năm qua đã cùng Chính phủ tham gia xây dựng các khung pháp lý cho tài sản số và blockchain. Thực tế này cho thấy thách thức lớn nhất hiện nay chính là thể chế, Việt Nam vẫn thiếu một hành lang pháp lý rõ ràng cho các mô hình kinh doanh mới như P2P, ngân hàng số… Đặc biệt, Nghị quyết 05 về tài sản số vừa qua đã đề cập những nội dung quan trọng như công nhận, quản lý, đánh thuế và phân loại danh mục đối với loại tài sản này.

TS. Trần Quý tại phiên họp chuyên đề chiều 30/09 (Ảnh: Lê Toàn).

TS. Trần Quý tại phiên họp chuyên đề chiều 30/09 (Ảnh: Lê Toàn).

Bài toán thứ hai là phát triển hạ tầng số đáng tin cậy. Theo TS. Quý, cần xây dựng hệ thống định danh cho hạ tầng số quốc gia, bảo đảm tính đồng bộ, tin cậy và liên thông.

Bài toán thứ ba là giải quyết vấn đề an ninh và niềm tin. Hiện các khung pháp lý về số chưa được vận hành rộng rãi, một phần do thể chế, một phần do thiếu niềm tin. Cùng với đó là thách thức trong việc thay đổi tư duy, vượt qua quan điểm “không quản được thì cấm”. Ông Quý dẫn ví dụ từ Nghị quyết 68, nhấn mạnh cần chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm.

“Nói trong phòng họp thì rất thuận lợi, nhưng khi triển khai ra thực tế lại vướng rất nhiều, từ tư duy, thói quen, cơ chế "xin - cho", cho tới vấn đề sandbox. Điều này đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận rủi ro nhiều hơn”, ông nhấn mạnh.

Bài toán thứ tư là Việt Nam đang thiếu nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, mặc dù lực lượng lao động nói chung không thiếu.

Nhóm thứ hai là đề xuất triển khai hai dự án trọng điểm.

Dự án thứ nhất tập trung xây dựng nền tảng định danh và xác thực điện tử cấp quốc gia, hướng tới mục tiêu mỗi người dân và doanh nghiệp có một danh tính số duy nhất, đáng tin cậy. Ông kiến nghị thành lập liên danh để tạo sức mạnh hội tụ triển khai dự án này bao gồm: nhóm hạ tầng, nhóm ngân hàng và nhóm công nghệ.

Dự án thứ hai, ngoài việc thí điểm sàn giao dịch mã hóa sẽ mở rộng thêm sàn giao dịch carbon và sàn giao dịch tài sản năng lượng tái tạo trên nền tảng gốc, nhằm nâng cao giá trị và năng lực phát triển của tài sản số. Dự án này dựa trên ba trụ cột: vận hành; công nghệ và tạo cung (huy động sự tham gia của các tập đoàn lớn trong lĩnh vực năng lượng, công nghiệp để tiên phong kiểm kê, phát thải và tạo tín chỉ).

Nhóm thứ ba là đề xuất thành lập một “tổ công tác đặc biệt” hay “tổ đặc nhiệm” cho từng dự án. Mục tiêu là tăng tính tập trung và thúc đẩy tiến độ triển khai.

Nhóm thứ tư là góp ý hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi mô hình công - tư.

Ông Quý đề nghị cơ chế chia sẻ rủi ro phải minh bạch, Nhà nước cần đi trước một bước và chịu trách nhiệm về rủi ro pháp lý. Ông dẫn chứng việc Sandbox phải có khung pháp lý rõ ràng, nếu không doanh nghiệp rất khó tiếp cận. Dù bản thân ông tham gia xây dựng khung pháp lý tài sản số nhưng vẫn chưa xin được sandbox, cho thấy khoảng cách giữa chính sách và thực tế là rất lớn.

Về vấn đề rủi ro hạ tầng, Nhà nước cần đầu tư hạ tầng số dùng chung, trong khi phía doanh nghiệp, ngoài cơ chế chia sẻ rủi ro với nhà nước, cần phải chấp nhận một phần rủi ro công nghệ, triển khai và thương mại hóa. Các nội dung này cần được dự trù và văn bản hóa rõ ràng cho từng trường hợp cụ thể, thay vì chỉ dừng ở nghị quyết hay nghị định chung chung.

Ngoài ra, cần khung pháp lý rõ ràng để chia sẻ lợi ích về doanh thu, sở hữu trí tuệ, dữ liệu, bảo đảm đủ hấp dẫn để thu hút các bên tham gia.

Ông Quý cũng kiến nghị áp dụng cơ chế “một dấu, một cửa” cho các dự án, bản thân Mô hình Toàn cảnh Kinh tế tư nhân Việt Nam (ViPEL) phải là một đầu mối tiếp nhận, xử lý vướng mắc, thay thế quy trình qua nhiều cấp, giúp đẩy nhanh tiến độ dự án.

Hồng Ân

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục