“Nhìn từ kinh nghiệm các thị trường đi trước, để ra đời một sản phẩm mới mất từ 3 - 5 năm. Nhưng năm 2016 được xem là giai đoạn chuẩn bị cuối cùng của HOSE về nền tảng công nghệ, cũng là điều kiện tiên quyết để triển khai các sản phẩm, dịch vụ mới và thực hiện hội nhập, kết nối với các Sở GDCK khác. Khi đã có điều kiện cần, chúng ta sẽ dần dần bổ sung các điều kiện đủ khác để TTCK Việt Nam ngày càng phát triển và hội nhập”, Chủ tịch HĐQT HOSE chia sẻ về quan điểm cũng như các bước đi hội nhập của TTCK Việt Nam.
Một sự kiện đáng nhớ trong năm 2015 là Dự án Trung tâm dữ liệu dự phòng của HOSE đã nghiệm thu xong, sẵn sàng vận hành trong năm nay. Trung tâm Dữ liệu dự phòng được xây dựng tại Khu công viên Phần mềm Quang Trung, Quận 12, TP. HCM, trên nền diện tích 5.000 m2 do UBND TP. HCM cấp. Trung tâm này được thiết kế theo tiêu chuẩn Tier III, với trang thiết bị công nghệ tiêu chuẩn quốc tế và có quy mô lớn nhất khu vực Đông Nam Á.
Theo ông Sinh, tại Trung tâm có 5 luồng điện dự phòng, gồm nguồn điện quốc gia, 2 nhà máy phát điện, 2 UPS và theo tính toán, cả năm chỉ ngắt hệ thống tổng cộng khoảng 1 giờ. Ngoài công năng là dự phòng cho hệ thống giao dịch của HOSE, dự án còn có mục tiêu hình thành một trung tâm dữ liệu dự phòng cho các đơn vị trực thuộc Bộ Tài chính tại khu vực phía Nam và triển khai các dịch vụ hỗ trợ công nghệ thông tin cho toàn thị TTCK Việt Nam.
“TTCK có hai điều kiện quan trọng nhất để phát triển là yếu tố công nghệ và con người. Về yếu tố công nghệ, chúng ta đang đi những bước cuối để hoàn tất. Từ đây mới có thể bắt đầu hội nhập, kết nối thị trường để cạnh tranh với các thị trường lớn khác trên thế giới. Còn nếu cứ nhỏ lẻ, manh mún, thì chúng ta không thể hội nhập”, ông Sinh nói.
Về những bước đi hội nhập cụ thể, ông Sinh cho hay: “Năm 2016 trở đi, chúng tôi sẽ tập trung vào 3 thị trường là Hàn Quốc, Thái Lan và một thị trường ở châu Âu để liên kết về mặt nghiệp vụ, sản phẩm; tính toán đến việc niêm yết chéo doanh nghiệp, giao dịch cổ phiếu các quỹ chỉ số. Việt Nam đã có chủ trương kết nối với các thị trường ASEAN, nhưng các điều kiện kết nối chưa hội đủ nên chúng ta chưa thực hiện. Nhưng kết nối là xu hướng chung để chúng ta có thể huy động được vốn nước ngoài”.
Với các yếu tố nội tại của thị trường Việt Nam, ông Sinh nhấn mạnh, việc cần ưu tiên là nâng chuẩn thị trường, đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường mới nổi theo tiêu chuẩn MSCI, khi đó mới có nhiều tổ chức nước ngoài đến đầu tư. Hiện tại, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng như các Sở giao dịch đang tập trung làm việc này.
Thực tế, khoảng cách đến các tiêu chuẩn quốc tế không còn xa, vì các quy định về chất lượng công bố thông tin, các tiêu chuẩn kiểm toán, kế toán… đã được ban hành. Khi các tiêu chuẩn này được tuân thủ và độ lớn của TTCK đạt đến ngưỡng nhất định, thì thị trường Việt Nam sẽ đủ điều kiện vào nhóm các thị trường mới nổi. Thách thức nhất hiện nay là phải cải thiện được quy mô thị trường. Do vậy, cần tiếp tục thực hiện cổ phần hoá DNNN, thúc các doanh nghiệp lên niêm yết.
“Khi các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam tìm hiểu thị trường, họ quan tâm nhiều đến chính sách mở cửa, tự do hóa dòng tiền, vấn đề quản trị công ty và minh bạch… Như vậy, câu chuyện hội nhập nhìn sâu hơn không chỉ phụ thuộc vào Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các Sở giao dịch, mà phụ thuộc rất nhiều vào chính sách vĩ mô. Đặc biệt, hội nhập trong lĩnh vực tài chính có tính chất nhạy cảm, phức tạp, bởi đây là lĩnh vực liên quan tới tất cả các lĩnh vực khác, do vậy công việc không chỉ là việc riêng của Bộ Tài chính, mà còn liên quan tới nhiều bộ, ngành khác”, ông Sinh chia sẻ.