Chờ giải pháp rốt ráo cho câu chuyện nợ xấu

(ĐTCK)  Nới room ngoại cho các ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc và “luật hóa” các quy định về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc hội, những giải pháp này kỳ vọng sẽ đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu cũng như tái cấu trúc ngành ngân hàng.
Với việc tiếp nhận GPBank, VPBank được phép mở room ngoại lên 49%

“Cú huých” xử lý ngân hàng yếu kém và nợ xấu

Từ cuối năm 2024, thị trường tài chính chứng kiến hàng loạt thương vụ chuyển giao bắt buộc ngân hàng yếu kém, như Vietcombank chính thức tiếp nhận Ngân hàng thương mại TNHH một thành viên Xây dựng Việt Nam (CB) và đổi tên thành VCBNeo. Tiếp đó, vào đầu năm 2025, MB, HDBank và VPBank lần lượt tiếp quản OceanBank (đổi tên thành MBV), DongA Bank (đổi tên thành Vikki Bank) và GPBank.

Theo TS. Trần Phước Huy, chuyên gia tài chính, Viện Ngân hàng Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đây là những bước đi cụ thể nhằm thực thi Đề án Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2021 - 2025, với mục tiêu xây dựng một môi trường tài chính lành mạnh, nâng cao sức chống chịu và giảm thiểu rủi ro hệ thống.

“Quan trọng hơn, tiến trình này nhận được sự chỉ đạo sát sao từ Bộ Chính trị, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, thể hiện quyết tâm chính trị rõ ràng trong việc xử lý dứt điểm các tồn đọng kéo dài, đồng thời tăng cường tính minh bạch và hiệu quả vận hành của hệ thống ngân hàng”, TS. Huy nhận định.

Cũng theo ông Huy, trong bức tranh tổng thể đó, việc mở rộng cửa cho dòng vốn nước ngoài được xem là yếu tố có thể mang tính chất đột phá. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Nghị định 69/2025/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 01/2014/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam. Nghị định có hiệu lực từ ngày 19/5/2025, cho phép tổng mức sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc ngân hàng yếu kém có thể vượt ngưỡng 30% nhưng không quá 49% vốn điều lệ (ngoại trừ các ngân hàng có vốn Nhà nước chi phối).

“Đây được xem là một cú huých chính sách đáng kể, không chỉ tháo gỡ nút thắt về vốn cho các ngân hàng đang trong quá trình tiếp nhận tổ chức tín dụng yếu, mà còn tạo điều kiện để thu hút thêm nhà đầu tư chiến lược có năng lực về quản trị, công nghệ và sản phẩm tài chính hiện đại. Trong bối cảnh xử lý nợ xấu đòi hỏi nguồn lực lớn, việc tăng “room” ngoại được xem là liều “doping” kịp thời để củng cố năng lực tài chính, tái cấu trúc tài sản và hiện đại hóa hệ thống quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, ông Huy nhận định.

Trong diễn biến có liên quan, ông Douglas Jackson, Giám đốc điều hành, Trưởng khu vực Việt Nam và Thái Lan tại Alvarez & Marsal nhận định, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt được công bố nhiều khi chỉ phản ánh một phần nhỏ thực trạng căng thẳng tài chính thực sự. Nguyên nhân, bởi các ngân hàng thường sử dụng các biện pháp tái cấu trúc nợ mang tính hình thức như chuyển giao các khoản nợ xấu cho các công ty quản lý tài sản liên quan, hoặc thực hiện các giao dịch đối ứng nợ xấu giữa các ngân hàng nhằm che giấu tình trạng tài chính yếu kém. Điều này không những làm sai lệch báo cáo tài chính, mà còn làm xói mòn niềm tin của nhà đầu tư vào ngành ngân hàng nói chung.

Báo cáo của Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) về chất lượng tài sản ngành ngân hàng vừa công bố cho biết, nợ xấu nội bảng từ các khoản cho vay khách hàng của 27 ngân hàng niêm yết, đăng ký giao dịch cổ phiếu trên sàn chứng khoán tăng hơn 37.000 tỷ đồng trong quý I/2025, sau khi đã giảm hơn 25.000 tỷ đồng vào quý trước đó, tương ứng mức tăng 16% so với quý trước. Qua đó, quy mô nợ xấu nội bảng cuối quý I/2025 tăng lên mức hơn 265.000 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ nợ xấu là 2,16%.

Trước đó, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, nợ xấu nội bảng toàn hệ thống tăng từ 778.000 tỷ đồng vào cuối năm 2024, (tương ứng 4,98% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế) lên 833.000 tỷ đồng vào cuối tháng 2/2025 (tương ứng 5,29% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế). Mức tăng nợ xấu trong 2 tháng đầu năm là 55.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, ước tính từ thông báo của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu tại các tổ chức tín dụng yếu kém (MBV, GPBank, VCBNeo, Vikki Bank, SCB) ước tính khoảng 537.000 tỷ đồng, chiếm 65% nợ xấu nội bảng của hệ thống và tập trung chủ yếu tại ngân hàng SCB.

Cũng theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, 5 tổ chức tín dụng yếu kém là MBV, GPBank, VCBNeo, DongA Bank, SCB có tỷ lệ nợ xấu lần lượt là 7,18%, 15,87%, 43,76%, 46,1% và 98,5%. Nợ xấu của các tổ chức tín dụng (không bao gồm các tổ chức tín dụng yếu kém) ước đạt 295.000 tỷ đồng.

Trao thêm quyền cho ngân hàng trong xử lý nợ xấu

Ông Phan Duy Hưng, CFA, MBA, Giám đốc, Chuyên gia Phân tích cấp cao VIS Rating nhận định, trong hai năm qua, việc xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến bất động sản, bao gồm cho vay mua nhà cá nhân, các khoản vay đối với nhà phát triển bất động sản và nhà thầu xây dựng đã đặt ra nhiều thách thức cho các ngân hàng ở Việt Nam.

Nguyên nhân là do sự phục hồi chậm của thị trường bất động sản trong giai đoạn năm 2023 và 6 tháng đầu năm 2024, đặc biệt là tại khu vực miền Nam, cũng như sự thiếu hụt một khuôn khổ pháp lý toàn diện để xử lý nợ xấu sau khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 (Nghị quyết 42) của Quốc hội hết hiệu lực vào tháng 12/2023.

Diễn biến trên thị trường cho thấy, việc thực hiện Nghị quyết 42 trong giai đoạn 2017 - 2023 đã hỗ trợ các ngân hàng trong việc thu hồi nợ xấu bằng cách tăng thiện chí trả nợ của khách hàng và đẩy nhanh quá trình xử lý tài sản đảm bảo. Nghị quyết này đóng vai trò như một khuôn khổ pháp lý đặc biệt để thí điểm việc xử lý các khoản nợ xấu và thu giữ tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng. Những điều khoản chính của nghị quyết cho phép các ngân hàng trực tiếp thu giữ tài sản đảm bảo và đơn giản hóa các thủ tục tòa án để giải quyết tranh chấp.

“Trong thời gian có hiệu lực, số lượng nợ xấu được xử lý trung bình hàng tháng tăng đáng kể, lên tới 65% so với giai đoạn trước đó. Tỷ lệ nợ xấu được khách hàng tự nguyện thanh toán cũng tăng lên 36% tổng số nợ xấu, cao hơn mức 23% trước khi có Nghị quyết 42”, ông Hưng nhận định.

Tuy nhiên, sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực vào tháng 12/2023, việc thu hồi nợ thông qua xử lý tại tòa án đã kéo dài thời gian hơn cho các ngân hàng, vì họ không còn có quyền để thu giữ tài sản đảm bảo theo Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành. Theo báo cáo từ một số ngân hàng, chưa đến 30% vụ việc được tòa án giải quyết, với thời gian xét xử kéo dài từ 5 - 7 năm. Ngoài ra, thiện chí trả nợ của người đi vay cũng giảm đi và gần một nửa số nợ xấu của các ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2024 đã được xử lý thông qua việc đẩy mạnh trích lập dự phòng tín dụng.

Ông Hưng chia sẻ: “Chúng tôi nhận thấy rằng một số ngân hàng tư nhân đã phải đối mặt với tỷ lệ nợ có vấn đề tăng từ 1,8% vào năm 2022 lên 2,4% vào năm 2024. Do những khó khăn trong việc thu giữ tài sản đảm bảo là bất động sản và tình trạng phục hồi chậm của thị trường bất động sản, các ngân hàng này đã gia tăng mức xóa nợ đáng kể, trung bình từ 30 - 40% để giải quyết các khoản nợ xấu của mình”.

Quốc hội đang xem xét thông qua sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng, tích hợp khung pháp lý quan trọng về thu hồi nợ xấu vào Luật. Luật sửa đổi dự kiến trao quyền cho các ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo và ngăn cản việc tài sản đảm bảo của ngân hàng bị kê biên trong một số vụ án hình sự.

Ông Hưng kỳ vọng, Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi sẽ hỗ trợ các ngân hàng thu hồi nợ xấu và cải thiện chất lượng tài sản, đặc biệt là đối với các ngân hàng tập trung vào bán lẻ.

“Lợi nhuận của các ngân hàng bán lẻ sẽ được cải thiện do chi phí vận hành thấp hơn khi giám sát các khoản nợ xấu nhỏ lẻ, phân tán theo địa lý, cũng như tăng nguồn thu từ thu hồi nợ xấu. Vì phần lớn tài sản đảm bảo của các ngân hàng là bất động sản, việc thị trường bất động sản thứ cấp phục hồi trong năm 2025 cũng sẽ tiếp tục hỗ trợ quá trình thanh lý tài sản thế chấp của các ngân hàng”, ông Hưng nói.

Nhuệ Mẫn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục