Lâu nay, các số liệu thống kê chưa tách riêng DNNVV, đóng góp GDP vẫn gộp chung doanh nghiệp ngoài quốc doanh và dân cư, năm 2015 là 48% và năm 2014 là 49%. Hay với con số 50% tổng vốn đầu tư xã hội, chắc chắn đã tính cả đầu tư cho nhà ở dân cư, không phải riêng DNNVV.
Nguồn lực cho DNNVV được sử dụng rất ít, trong khi khu vực này tạo ra nhiều việc làm. DNNVV cũng là bộ phận "bị hành" nhiều nhất bởi các cơ quan quản lý nhà nước. Nếu có bất ổn kinh tế vĩ mô, thay đổi chính sách, thì DNNVV chịu rủi ro nhiều nhất.
DNNVV là loại hình doanh nghiệp tạo ra nhiều việc làm. Vì vậy, các chính sách cần có mục đích rõ ràng là thúc đẩy DNNVV khởi sự và tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh. Muốn vậy phải tháo gỡ những vướng mắc thể chế, vướng mắc thủ tục hành chính, không để DN "bị hành".
Thống kê của Hiệp hội DNNVV cho thấy, chỉ có 1% DNNVV muốn trở thành "đại gia". Nếu đó là ý muốn chủ định của các doanh nhân DNNVV thì ít quá, ngay cả khi 1% là do ảnh hưởng của chính sách. Cho nên cần thúc đẩy thành lập DNNVV và một bộ phận các doanh nghiệp nhỏ trở thành vừa. Ví dụ, một số doanh nghiệp start up về công nghệ mới, nếu thành công đã trở thành doanh nghiệp vừa.
Ai cũng muốn sản phẩm của DN nước ta có giá trị gia tăng cao, làm từ A đến Z. Tuy nhiên, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, cần chiến lược cụ thể, các DNNVV phát triển theo hướng liên kết các cụm, ngành sản xuất. Chiến lược này phải xác định được những cụm và ngành có năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh không trải rộng trên toàn quốc mà tập trung ở một tỉnh, hoặc một vùng.
Ví dụ, sản xuất điện tử, điện thoại của Việt Nam hiện nay đứng thứ 5 trên thế giới, tập trung ở Bắc Ninh và Thái Nguyên; sản xuất xe máy ở Vĩnh Phúc, chế biến thủy hải sản ở đồng bằng sông Cửu Long. Muốn vậy, Nhà nước phải thúc đẩy các cụm, ngành liên kết sản xuất. Đối với những DN muốn gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu, Nhà nước hỗ trợ để liên kết với các doanh nghiệp FDI.
Chính sách hỗ trợ DNNVV phải được triển khai phù hợp. Nếu Nhà nước dùng nguồn lực hạn chế để ưu đãi trực tiếp thì không đủ trải rộng tới tất cả DNNVV. Quỹ hỗ trợ DNNVV với vốn điều lệ 2.000 tỷ đồng là rất nhỏ so với nhu cầu tín dụng hiện nay của DNNVV.
Do đó, Nhà nước phải chọn được các nhóm ngành, cụm ngành có lợi thế cạnh tranh, cho phép thành lập các hiệp hội ngành (nếu chưa có), đồng thời gắn với địa phương và vùng. Nhà nước yêu cầu trong hai năm 2016 - 2017, hiệp hội của từng ngành phải kiến nghị hỗ trợ những thứ DN cần như đất đai, tín dụng hay công nghệ.
Cách làm này cũng buộc các hiệp hội và doanh nghiệp phải liên kết chặt chẽ. DNNVV bây giờ không còn ngại "thấp cổ, bé họng", có thể nói về những vấn đề cần hỗ trợ, những khó khăn cần tháo gỡ với hiệp hội. Nếu doanh nghiệp không kiến nghị, hiệp hội không đề xuất, Nhà nước không phải hỗ trợ.
Một điểm nữa, vai trò của Nhà nước là sửa chữa thất bại của thị trường. Bây giờ doanh nghiệp cần không chỉ là tín dụng, hay đất đai mà còn là vấn đề đổi mới, vấn đề chuyển giao công nghệ. Lâu nay có người vẫn giữ quan điểm, nếu doanh nghiệp cung cấp sản phẩm cho Samsung, hay Intel, thì các tập đoàn này phải chuyển giao công nghệ.
Thực tế, Samsung hay Intel đều không đầu tư công nghiệp phụ trợ, mà công nghệ hỗ trợ nằm ở các DNNVV của các nước trong khu vực, như Đài Loan, Hàn Quốc. Với những doanh nghiệp muốn tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu, chẳng hạn của Samsung, Nhà nước có thể hỗ trợ trực tiếp nguồn lực mua và chuyển giao công nghệ hỗ trợ, đào tạo nhân lực từ các nước có nền công nghiệp phụ trợ phát triển.
Cạnh đó, với những doanh nghiệp start up, muốn thương mại hóa công nghệ sau khi đã có ý tưởng sản phẩm, tự hình thành được công nghệ, Nhà nước có thể hỗ trợ bằng cách cho vay tín dụng hoặc bảo lãnh, nhưng cũng chỉ giới hạn ở mức đó.