Các kịch bản chính sách
Tài chính là một phương tiện thực thi quan trọng có thể biến các khát vọng về chính sách và sáng kiến thành các hành động thực tiễn nhằm thúc đẩy tiến trình thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs). Cam kết Quốc gia của Việt Nam về Chuyển đổi SDGs và Báo cáo rà soát quốc gia tự nguyện năm 2023 (VNR 2023) xác định việc thu hẹp các khoảng cách tài chính là một trong những ưu tiên chính để Việt Nam đẩy nhanh việc đạt được các mục tiêu SDGs vào năm 2030.
Trong bối cảnh này, Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình Dương (ESCAP) và Liên Hợp Quốc tại Việt Nam phối hợp cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) thực hiện Nghiên cứu “Thúc đẩy Phát triển bền vững ở Việt Nam: Các Lựa chọn chính sách” (Nghiên cứu) dựa trên mô hình kinh tế vĩ mô của ESCAP.
Tại Hội thảo công bố kết quả Nghiên cứu, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc đánh giá, Nghiên cứu đã nêu bật các phát hiện và khuyến nghị quan trọng liên quan đến việc tài trợ cho các kịch bản chính sách được lựa chọn và các mục tiêu SDGs ở Việt Nam.
|
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc tại Hội thảo công bố Nghiên cứu |
Theo kết quả Nghiên cứu, đầu tư vào năng lượng tái tạo có thể giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu về phát triển năng lượng tái tạo, giảm phát thải carbon, cải thiện chất lượng không khí và tăng trưởng kinh tế. Giả định rằng, Chính phủ sẽ tăng đầu tư vào năng lượng tái tạo, ước tính khoảng 13,5 tỷ USD/năm từ năm 2021 đến năm 2030 và 23 tỷ USD/năm từ năm 2031 đến năm 2050 theo Quyết định số 500/QĐ-TTg, tỷ trọng năng lượng tái tạo dự kiến tăng đáng kể. Đặc biệt, giai đoạn sau năm 2030, năng lượng tái tạo sẽ chiếm gần 60% cơ cấu năng lượng và phát thải carbon sẽ giảm 53% so với mức cơ sở vào năm 2050.
Bên cạnh đó, GDP sẽ tăng thêm 3-4% so với kịch bản cơ sở trong những năm đầu tư đầu tiên, sau đó giảm về mức tăng trưởng dương cao hơn khoảng 2% GDP so với mức cơ sở đến năm 2030. Sau 2030, tốc độ tăng trưởng GDP sẽ tăng trở lại, trung bình khoảng 3,5% nhờ các khoản đầu tư mới, với quy mô lớn hơn trong giai đoạn 2030-2050. Tuy nhiên, nếu khoản đầu tư quy mô lớn này chủ yếu đến từ Chính phủ thì có thể khiến nợ công tăng đột biến.
Mô hình cũng cho thấy, thuế carbon có thể là công cụ hiệu quả để khử carbon, giảm phát thải và cải thiện dư địa tài khóa mà chỉ tạo ra ít tác động tiêu cực cho nền kinh tế. Với giả định tăng thuế carbon từ 25 USD/tCO2e vào năm 2023 lên 90 USD/tCO2e vào năm 2040, theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, đồng thời loại bỏ hoàn toàn trợ cấp carbon từ năm 2023 trở đi, lượng phát thải carbon dự kiến sẽ giảm đáng kể, khoảng 10% so với mức cơ sở vào năm 2030 và 20% vào năm 2050, từ đó giúp cải thiện chất lượng không khí và sức khỏe, góp phần làm tăng trưởng năng suất tổng thể.
Doanh thu từ thuế carbon và khoản tiết kiệm nhờ loại bỏ cơ chế trợ cấp carbon sẽ giúp tăng đáng kể dư địa tài khóa, giảm nợ chính phủ từ mức cơ sở là 60% GDP xuống 38,8% vào năm 2030, tỷ lệ nợ sẽ tiếp tục giảm trong dài hạn. Tuy nhiên, chính sách có thể tác động tiêu cực đến GDP, vốn sẽ giảm nhẹ ở mức 1% trong dài hạn. Kết quả mô phỏng cho thấy chính sách thuế carbon có thể là công cụ quan trọng để giảm phát thải, cải thiện chất lượng không khí và dư địa tài khóa; tuy nhiên, vẫn cần xem xét tác động dù nhỏ nhưng tiêu cực đến nền kinh tế.
|
Toàn cảnh Hội thảo |
Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng xanh, y tế, an sinh xã hội và giáo dục như trong ba Chương trình mục tiêu quốc gia có thể mang lại tác động tích cực, đáng kể cho công tác giảm nghèo và sản lượng kinh tế, đặc biệt là trong giai đoạn thực hiện Chương trình 2021-2025.
Giả sử khoản đầu tư của Chương trình mục tiêu quốc gia được giải ngân hiệu quả, sản lượng kinh tế có thể tăng thêm 2% so với kịch bản cơ sở trong giai đoạn thực hiện Chương trình 2021-2025. Từ năm 2025 trở đi, tác động tăng trưởng sẽ giảm, chỉ cao hơn khoảng 0,8% so với mức cơ sở. Do phần lớn đầu tư sẽ dành cho an sinh xã hội nên có thể giảm đáng kể tình trạng nghèo đói. Tác động đến dư địa tài khóa là không đáng kể, vì chỉ 15,22% tổng gói chi tiêu được tài trợ bởi ngân sách Nhà nước.
Đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thông tin và truyền thông, chiếm khoảng 2% GDP, có khả năng tạo ra tác động tích cực đến sản lượng kinh tế trong dài hạn. Dự kiến tác động tăng trưởng tích cực sẽ tăng dần từ mức cơ sở vào năm 2020 và đạt khoảng 0,7% so với mức cơ sở từ năm 2025 trở đi. Do quy mô của gói đầu tư dự kiến không quá lớn nên sẽ không có nhiều tác động đến các chỉ số xã hội và môi trường như nghèo đói, bất bình đẳng và lượng phát thải carbon. Đáng chú ý, vì phần lớn gói đầu tư dự kiến đến từ khu vực tư nhân nên nợ công sẽ giảm xuống thấp hơn mức cơ sở.
Lộ trình cụ thể
Từ các kết quả lập mô hình kể trên, Nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị chính sách và lộ trình. Theo đó, để đáp ứng nhu cầu tài khóa, Chính phủ cần đẩy mạnh sử dụng các nguồn tài chính công chưa được khai thác, giảm chi phí vay và huy động vốn tư nhân.
Chính phủ Việt Nam có thể thực hiện một số chiến lược để tăng nguồn thu thuế một cách hiệu quả. Theo ước tính mới của ESCAP, Việt Nam có thể tăng doanh thu thuế của Chính phủ thêm 2,5% GDP so với các quốc gia có kết quả vượt trội nhất.
Bên cạnh đó, khi áp dụng thuế carbon, Chính phủ Việt Nam cần lập kế hoạch kỹ lưỡng, xem xét những tác động tiêu cực tiềm ẩn và thực hiện các biện pháp giảm thiểu hiệu quả. Việc áp dụng thuế carbon tại Việt Nam đòi hỏi một kế hoạch kỹ lưỡng và quá trình xem xét nhiều yếu tố khác nhau như khung pháp lý, giá carbon, cơ chế đánh thuế, miễn trừ và giảm thuế, công tác triển khai và thực thi, phân bổ doanh thu… Tiến hành đánh giá toàn diện về kinh tế xã hội và môi trường là bước đầu để dự đoán và khắc phục những tác động bất lợi đối với các nhóm hoặc các ngành dễ bị tổn thương.
Chính phủ Việt Nam có cơ hội thuận lợi để khai thác các cơ chế tài chính phi truyền thống từ trái phiếu Chính phủ, đặc biệt là trái phiếu bền vững, để bổ trợ cho các khoản vay tài khóa truyền thống và thu hẹp khoảng trống về nguồn tài chính nhằm đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững.
Đáng chú ý, Việt Nam có thể giảm chi phí vay của Chính phủ bằng cách tập trung phát triển thị trường vốn và chuyển tiết kiệm trong nước thành trái phiếu Chính phủ thông qua một số biện pháp chiến lược.
Đầu tiên, việc cải thiện cơ sở hạ tầng thị trường và khung pháp lý giúp tăng thanh khoản và củng cố niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường trái phiếu, thu hút nhiều nhà đầu tư hơn và giảm chi phí vay. Hoạt động này có thể bao gồm cải thiện các nền tảng giao dịch, triển khai cơ chế định giá minh bạch và tăng cường bảo vệ pháp lý cho trái chủ.
Thứ hai, thúc đẩy đổi mới tài chính, chẳng hạn như giới thiệu các sản phẩm trái phiếu mới và mở rộng khả năng tiếp cận thị trường trái phiếu cho các nhà đầu tư bán lẻ, có thể thu hút thêm nhiều nhà đầu tư và xây dựng cơ chế định giá động cạnh tranh hơn.
Việc xây dựng và triển khai danh mục phân loại xanh có thể mang lại môi trường kinh doanh thuận lợi cho đầu tư xanh thông qua các tiêu chí rõ ràng và được chuẩn hóa giúp xác định các hoạt động kinh tế bền vững với môi trường.
Đồng thời, Việt Nam cũng có cơ hội thuận lợi để xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho các lĩnh vực tập trung vào tính bền vững và thường đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn, đặc biệt là năng lượng tái tạo và cơ sở hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu.