Theo dự thảo mới nhất của Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ do Bộ Công an chủ trì soạn thảo, giấy phép lái xe gồm các trường thông tin bằng tiếng Việt và tiếng Anh.
Các thông tin về nơi cư trú của người có giấy phép lái xe, ngày cấp phép cho từng loại phương tiện, cơ sở đào tạo lái xe, cơ quan sát hạch cấp giấy phép lái xe, điểm của giấy phép lái xe và các thông tin khác được mã hóa bằng thông tin điện tử trong giấy phép lái xe và phần mềm quản lý giấy phép lái xe.
Căn cứ vào kiểu loại, công suất động cơ, khối lượng và công dụng của xe, giấy phép lái xe bao gồm 11 hạng:
Hạng A01 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh từ 50 cm3đến 175 cm3 hoặc động cơ điện có công suất định mức liên tục tương đương;
Hạng A2 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh trên 175 cm3 trở lên hoặc động cơ điện có công suất định mức liên tục tương đương và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A01;
Hạng A3 cấp cho người lái xe mô tô ba bánh và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A01;
Hạng B cấp cho người lái xe ô tô chở người đến 9 chỗ (kể cả chỗ của người lái xe); xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế không vượt quá 3.500kg; các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng B có gắn kèm rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc không vượt quá 750kg;
Hạng C cấp cho người lái xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế trên 3.500kg; các loại xe ô tô tải quy định cho giấy phép lái xe hạng C có gắn kèm rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng B;
Hạng D2 cấp cho người lái xe ô tô chở người từ 10 chỗ đến 30 chỗ (kể cả chỗ của người lái xe); các loại xe ô tô chở người quy định cho giấy phép lái xe hạng D2 có gắn kèm rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng B, C;
Hạng D cấp cho người lái xe ô tô chở người trên 30 chỗ (kể cả chỗ của người lái xe); các loại xe ô tô chở người quy định cho giấy phép lái xe hạng D có gắn kèm rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng B, C, D2;
Hạng BE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng B khi kéo rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc trên 750 kg;
Hạng CE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng C khi kéo rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc trên 750 kg; xe ô tô đầu kéo kéo sơ mi rơ moóc;
Hạng D2E cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng D2 khi kéo rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc trên 750 kg;
Hạng DE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng D khi kéo rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc trên 750 kg; xe ô tô chở khách nối toa.
Bộ Công an đề xuất giấy phép lái xe hạng A01, A2, A3 không thời hạn; giấy phép lái xe hạng B có thời hạn 10 năm kể từ ngày cấp; giấy phép lái xe hạng C, D2, D, BE, CE, D2E, DE có thời hạn 5 năm kể từ ngày cấp.
|
Sát hạch giấy phép lái xe. |
11 hạng giấy phép lái xe là thống nhất với Công ước Viên 1968
Theo báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, có ý kiến cho rằng dự thảo luật chia giấy phép lái xe thành 11 hạng khác nhau thay vì 15 hạng như hiện nay, trong đó có 11 loại giấy phép lái xe bị thay đổi, sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lái xe.
Có ý kiến đề nghị cân nhắc tính khả thi của việc trừ điểm giấy phép lái xe; có ý kiến cho rằng, việc tính điểm nên áp dụng đối với người lái xe.
Cũng có ý kiến đề nghị bổ sung quy định học lại các nội dung đã phạm lỗi khi giấy phép lái xe bị trừ đến một số điểm nhất định...
Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh đề nghị nghiên cứu các ý kiến trên, đồng thời cho rằng việc phân 11 hạng giấy phép lái xe là thống nhất với Công ước Viên 1968 về giao thông đường bộ.
Trong dự thảo luật đã có điều khoản chuyển tiếp, quy định 9 loại giấy phép lái xe được cấp theo Luật Giao thông đường bộ năm 2008 còn thời hạn thì vẫn có hiệu lực (khoản 3 Điều 72).
Trường hợp cấp lại thì cấp theo quy định mới (khoản 2 Điều 72). Do đó, quy định mới này không ảnh hưởng đến quyền lợi của người đã được cấp giấy phép lái xe.
Ngoài ra, quy định mới về điểm của giấy phép lái xe và trừ điểm, phục hồi điểm của giấy phép lái xe nhằm bổ sung biện pháp quản lý và chế tài trong quản lý đối với giấy phép lái xe, có sự tham khảo kinh nghiệm pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn của một số nước (như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Italia…).
“Quy định như vậy nhằm mục đích gắn việc quản lý giấy phép lái xe với quản lý vi phạm của người tham gia giao thông. Do đó, việc bổ sung quy định trên trong luật này và xác định hình thức xử phạt bổ sung trong Luật Xử lý vi phạm hành chính là hợp lý. Tuy nhiên, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu cách trừ điểm cho phù hợp với đối tượng, hành vi và bảo đảm tính khả thi; đồng thời, hạn chế lạm dụng quy định”- báo cáo thẩm tra nêu rõ.