Bảo vệ cổ đông nhỏ tốt hay không, phụ thuộc vào chính họ

(ĐTCK) Một trong những cải cách quan trọng của Luật Doanh nghiệp 2014 là tăng cường chế định bảo vệ cổ đông, đặc biệt là cổ đông nhỏ. Tuy nhiên, điều quan trọng cần hiểu rõ ở đây là mức độ bảo vệ cổ đông nhỏ phụ thuộc nhiều vào chính nhận thức, sự tích cực và chủ động của họ trong bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những thay đổi cơ bản nhằm tăng cường mức độ bảo vệ cổ đông thiểu số Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những thay đổi cơ bản nhằm tăng cường mức độ bảo vệ cổ đông thiểu số

Bảo vệ cổ đông là gì?

Trong công ty, những cổ đông sở hữu một số lượng ít cổ phần thường được gọi là cổ đông nhỏ. Thực tiễn quốc tế cho thấy, không có khái niệm pháp lý hay một định nghĩa thống nhất về cổ đông nhỏ, cũng không có một tiêu chí về sở hữu cổ phần thống nhất là bao nhiêu % để xác định cổ đông nhỏ. Khái niệm cổ đông nhỏ phụ thuộc vào khái niệm cổ đông lớn và phụ thuộc vào cơ cấu sở hữu cụ thể trong các công ty.

Cổ đông nhỏ thường chiếm đa số về số lượng nên giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển và ổn định thị trường vốn, là công cụ quan trọng trong giám sát và đảm bảo quản trị hiệu quả cho công ty. Mặc dù vậy, vì là nhà đầu tư nhỏ nên họ dễ phải đối diện với bất lợi trong công ty.

Do ít vốn, họ có ít quyền và tiếng nói ít trọng lượng trong hoạt động điều hành công ty; dễ bị chèn ép và buộc phải cuốn theo những kế hoạch kinh doanh đã được sắp đặt trước của các cổ đông lớn; lợi ích hợp pháp có thể bị chiếm đoạt bởi những người quản lý, cổ đông lớn, là những người có cơ hội để vun vén cho lợi ích cá nhân hoặc chiếm đoạt một phần lợi ích chung của công ty.

Bảo vệ cổ đông thiểu số là bảo vệ đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông đó; hạn chế và ngăn chặn cổ đông lớn, người quản lý chiếm đoạt lợi ích hợp pháp của cổ đông thiểu số.

Bảo vệ cổ đông nhỏ là đối xử công bằng giữa các cổ đông lớn và nhỏ, phù hợp với tỷ lệ sở hữu cổ phần của họ trong công ty. Bảo vệ cổ đông nhỏ không phải là trao cho cổ đông nhỏ quyền và lợi nhiều hơn so với tỷ lệ sở hữu cổ phần của họ trong công ty. Thách thức lớn nhất khi thiết chế quy định về bảo vệ cổ đông là đảm bảo sự cân bằng giữa tạo điều kiện cho cổ đông bảo vệ lợi ích của mình và tránh sự lạm dụng chính quy định này bởi cổ đông “phá rối”, gây cản trở hoạt động bình thường của công ty.

Ông Phan Đức Hiếu, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương
 

Lợi ích của cổ đông nhỏ có thể bị chiếm đoạt bằng cách nào?

Thông thường, lợi ích của các cổ đông nhỏ bị chiếm đoạt trong trường hợp người quản lý, cổ đông lớn lạm dụng địa vị và quyền hạn được giao để giao kết giao dịch kinh doanh, nhằm có thêm lợi ích cho mình thay vì mang lại lợi ích chung cho công ty.

Giao dịch loại này gọi là giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi. Giao dịch này có thể xuất hiện dưới hình thức ký kết với những người có liên quan, như các công ty mà họ hoặc người trong gia đình họ có sở hữu cổ phần, phần vốn góp.

Thông qua những giao dịch này họ chuyển một phần lợi ích đáng phải thu về cho công ty cho các đối tượng nói trên và họ sẽ là người gián tiếp được hưởng lợi hoặc trực tiếp được chia sẻ lợi ích đó.

Trong trường hợp này, lợi ích của các cổ đông nhỏ sẽ bị thiệt hại thông qua lợi ích chung của công ty giảm xuống và lợi ích mất đi đã được chuyển cho cổ đông lớn và người quản lý. Nói cách khác, lợi ích của cổ đông nhỏ đã bị chiếm đoạt bởi cổ đông lớn, người quản lý.

Ngoài ra, quyền của cổ đông nhỏ cũng có thể bị vi phạm và hạn chế trong trường hợp Điều lệ công ty quy định những nguyên tắc quản trị gây bất lợi cho họ trong thực hiện quyền, như hạn chế quyền tiếp cận thông tin khiến cổ đông nhỏ khó theo dõi và giám sát người quản lý, cổ đông lớn; hạn chế quyền dự họp và biểu quyết thông qua quyết định quan trọng của công ty.

Bảo vệ cổ đông nhỏ tốt hay không, phụ thuộc vào chính họ ảnh 2

Luật pháp bảo vệ cổ đông nhỏ bằng cách nào?

Để hạn chế trường hợp lợi ích của cổ đông nhỏ bị chiếm đoạt, Luật Doanh nghiệp 2014 thiết lập 2 nhóm quy định là: về xung đột lợi ích và nguyên tắc quản trị doanh nghiệp.

Nhóm quy định về xung đột lợi ích bao gồm các nội dung (xem sơ đồ 1): (i) yêu cầu công khai hóa giao dịch có liên quan và vai trò cổ đông nhỏ trong phê duyệt giao dịch tư lợi; (ii) quy định trách nhiệm đền bù thiệt hại của người quản lý khi thiết lập giao dịch tự lợi; (iii) tạo dễ dàng cho cổ đông khởi kiện người quản lý đòi đền bù thiệt hại gây ra cho công ty.

Nhóm quy định về nguyên tắc quản trị doanh nghiệp bao gồm: (i) quyền của các cổ đông trong việc thông qua các quyết định quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ; (ii) nguyên tắc cơ cấu quản trị doanh nghiệp nhằm đảm bảo sự khách quan, độc lập và hạn chế sở hữu chéo; (iii) minh bạch trong quản trị doanh nghiệp, đặc biệt về thông tin cơ cấu sở hữu, kiểm toán và tài chính.

Theo các quy định về bảo vệ cổ đông nói trên, các cổ đông được trao 3 công cụ quan trọng để bảo vệ lợi ích của mình.

Thứ nhất là quyền được tiếp cận các thông tin. Các cổ đông có cơ hội tiếp cận thông tin về hoạt động quản trị và kinh doanh của công ty, bao gồm các thông tin về giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi, cơ cấu sở hữu… thông qua yêu cầu công khai hóa thông tin hoặc trực tiếp yêu cầu công ty cung cấp.

Thứ hai là quyền tham gia thông qua các quyết định quan trọng của công ty, đặc biệt là quyết định có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của mình. Các quyền này thường bao gồm quyền trực tiếp triệu tập họp ĐHCĐ (nếu HĐQT từ chối triệu tập họp theo yêu cầu của cổ đông), quyền biểu quyết thông qua các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi và các quyết định khác có ảnh hưởng trực tiếp lợi ích của mình.

Thứ ba là quyền khởi kiện người quản lý công ty đòi bồi thường thiệt hại xảy ra cho công ty. Các cổ đông có thể trực tiếp hoặc nhân danh công ty khởi kiện người quản lý đòi bồi thường thiệt hại cho công ty trong trường hợp người quản lý vi phạm trách nhiệm của mình trong thực hiện quyền, nhiệm vụ được giao.

Luật Doanh nghiệp 2014 có gì mới?

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), mức độ bảo vệ cổ đông thiểu số của Việt Nam hiện đạt 4,7 điểm (tính theo Báo cáo kinh doanh 2015) và xếp thứ 117/188 quốc gia.

Sau khi Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 có hiệu lực vào ngày 1/7/2015, mức độ bảo vệ cổ đông thiểu số của Việt Nam đạt điểm trung bình là 6,2 điểm (tác giả tự tính toán theo phương pháp của WB).

Điểm số này tương đương với điểm số trung bình của các nước thuộc OECD (6,3 điểm) và của châu Âu và Trung Á (5,9 điểm). So với các nước trong khu vực, điểm số bảo vệ cổ đông thiểu số của Việt Nam tương đương trung bình của các nước ASEAN 6: Singapore, Malaysia, Brunei, Thái Lan, Indonesia và Philippines (6,2 điểm) và thấp hơn không đáng kể trung bình của các nước ASEAN 4: Singapore, Malaysia, Thái Lan và Philippines (6,55 điểm).

So với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những thay đổi cơ bản nhằm tăng cường mức độ bảo vệ cổ đông thiểu số. Cụ thể, mở rộng quyền tiếp cận các thông tin về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là các thông tin về giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi của công ty.

Luật xác định rõ ràng quyền cổ đông trong xem xét, trích lục và sao một phần hoặc toàn bộ nội dung danh sách người có liên quan và lợi ích có liên quan; đồng thời, yêu cầu công ty phải tạo điều kiện để cổ đông tiếp cận, xem, trích lục và sao chép danh sách những người có liên quan của công ty và những nội dung khác một cách nhanh nhất, thuận lợi nhất; không được ngăn cản, gây khó khăn cho đối tượng liên quan trong thực hiện quyền này.

Xác định rõ hơn, cụ thể hơn nghĩa vụ và trách nhiệm của người quản lý công ty, giảm nguy cơ người quản lý lạm dụng địa vị, quyền hạn để tư lợi cá nhân.

Người quản lý công ty phải kê khai các lợi ích có liên quan của họ cho công ty, bao gồm doanh nghiệp mà họ có sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần và doanh nghiệp mà những người có liên quan của họ sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần trên 10% vốn điều lệ.

Người quản lý có trách nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất, nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty; trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.

Tạo thuận lợi hơn cho cổ đông khởi kiện người quản lý trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ của mình và/hoặc gây thiệt hại cho công ty, cổ đông.

Cổ đông hoặc nhóm cổ đông có thể tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện ngay người quản lý trong trường hợp người quản lý vi phạm nghĩa vụ của mình. Chi phí khởi kiện trong trường hợp cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện nhân danh công ty sẽ tính vào chi phí của công ty, trừ trường hợp thành viên khởi kiện bị bác yêu cầu khởi kiện.

Thay đổi trên của Luật Doanh nghiệp 2014 tạo thuận lợi hơn cho các cổ đông nắm bắt kịp thời các thông tin về hoạt động của doanh nghiệp, tham gia giám sát hiệu quả đối với người quản lý, cổ đông lớn trong điều hành doanh nghiệp và kịp thời khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại khi cần thiết.

Cổ đông cần làm gì để bảo vệ mình?

Quy định của Luật Doanh nghiệp về bảo vệ cổ đông thiểu số chỉ là trao cho các cổ đông công cụ bảo vệ mình. Các công cụ này có được sử dụng hay không sử dụng và được sử dụng hiệu quả đến mức độ nào, phần lớn phụ thuộc vào chính các cổ đông nhỏ. Ví dụ, người quản lý có chịu trách nhiệm hay không phụ thuộc vào cổ đông có hay không thực hiện quyền khởi kiện của mình.

Do đó, xét từ góc độ các cổ đông thì cần có một số lưu ý sau đây khi sử dụng các công cụ được trao để bảo vệ mình.

Một là, hiểu rõ ý nghĩa và nội dung của quy định về bảo vệ cổ đông nhỏ, đặc biệt là quy định về khởi kiện người quản lý và trách nhiệm người quản lý.

Cho đến nay, khái niệm “trách nhiệm” người quản lý chưa được nhận thức đúng và đầy đủ mặc dù khái niệm này đã được đưa vào Luật Doanh nghiệp năm 1999. Nhiều người còn nhầm lẫn giữa khái niệm “trách nhiệm” và “quyền và nghĩa vụ” của người quản lý.

Trách nhiệm người quản lý được hiểu đúng đó là việc người quản lý phải “trung thành, trung thực và cẩn trọng” trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao.

Nói cách khác, người quản lý phải thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất, nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty; trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.

Trường hợp, người quản lý vi phạm trách nhiệm của mình thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh, hoàn trả cho công ty các khoản lợi thu được.

Hai là, ngoài việc nhận thức rõ quyền của mình thì quan trọng hơn phải nắm rõ và thực hiện quyền được trao theo đúng yêu cầu về trình tự, thủ tục. Ví dụ, quyền triệu tập họp ĐHCĐ của cổ đông, thì cần phải đáp ứng đúng yêu cầu theo quy định của Luật Doanh nghiệp: chỉ các cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng mới có quyền yêu cầu hoặc đứng ra triệu tập họp ĐHCĐ, các cổ đông nhỏ có thể tập hợp lại để đáp ứng điều kiện này; cổ đông hoặc nhóm cổ đông này chỉ được trực tiếp triệu tập họp ĐHCĐ nếu HĐQT, Ban kiểm soát từ chối yêu cầu triệu tập họp của cổ đông hoặc nhóm cổ đông này; việc triệu tập họp và thông qua quyết định phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục, yêu cầu, điều kiện về họp ĐHCĐ.

Ba là, các cổ đông phải luôn có ý thức chủ động và thường xuyên theo dõi, giám sát đối với hoạt động của công ty nói chung và người quản lý nói riêng.

Về cơ bản, cổ đông sẽ dễ dàng hơn trong thực hiện quyền tiếp cận thông tin về quản trị và hoạt động của công ty khi công ty đang hoạt động bình thường. Cổ đông sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều trong việc thu thập thông tin từ đầu khi phát hiện công ty có vấn đề, phát sinh mâu thuẫn giữa các nhóm cổ đông hoặc giữa cổ đông với người quản lý.

Cuối cùng, các cổ đông không lạm dụng những quyền hạn, công cụ được trao. Xét cho cùng, nếu các cổ đông lạm dụng quyền hạn, công cụ được trao để giám sát hoạt động của công ty, người quản lý quá mức bình thường sẽ gây tốn kém thời gian, chi phí cho công ty, gây ảnh hưởng hoạt động của công ty, có thể làm giảm lợi ích của công ty. Như vậy, vô hình chung là gây thiệt hại cho chính lợi ích của cổ đông.

Ông Phan Đức Hiếu
Đặc san BCTN 2015

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục