Báo cáo thường niên chuyển thông tin đến thị trường và xã hội như thế nào?(tiếp theo)

(ĐTCK-online) Có lý do để kỳ vọng rằng, trong môi trường cạnh tranh lành mạnh và thông tin đến mỗi nhà đầu tư là công bằng thì DN nào công bố thông tin càng minh bạch, càng rõ ràng, DN đó càng hưởng lợi khi nhận được lòng tin từ nhà đầu tư nhiều hơn.
Hình ảnh đăng tải trong báo cáo thường niên minh họa một trong những hoạt động cộng đồng của Vinamilk. Năm 2006 và 2007, Vinamilk đã dành hơn 20 tỷ đồng cho các hoạt động vì lợi ích cộng đồng.

Những tác hại khi thị trường thiếu vắng báo cáo thường niên (BCTN) tốt

Lòng tin tăng đồng nghĩa với đánh giá của nhà đầu tư đối với rủi ro giảm, kéo theo là đòi hỏi tỷ suất sinh lợi đền bù cho rủi ro của họ cũng sẽ giảm hay nói khác đi là DN có thể phát hành cổ phiếu sau đó với giá thị trường cao hơn, hưởng được khoản thặng dư vốn cao hơn và có chi phí sử dụng vốn cho dự án đầu tư rẻ hơn. Như vậy, DN muốn tối đa hóa giá trị thị trường của mình thì cần khắc phục sự bất cân xứng thông tin, mà một phần trong đó là phải cố gắng tận dụng bản BCTN của mình. Tuy nhiên, trên thị trường tài chính ở nước ta thì lại có khuynh hướng ngược lại: các DN xem quy định bắt buộc công bố thông tin như là một thủ tục hành chính phiền toái và phần nhiều các DN không muốn "cởi áo cho người xem lưng". Tình trạng bất cân xứng thông tin giữa nhà đầu tư và DN luôn là vấn đề thường trực. Việc DN vi phạm các quy chế về công bố thông tin liên tục xảy ra. Có rất nhiều thông tin do các công ty đại chúng đưa ra thiếu chính xác, mơ hồ, không rõ ràng, đôi khi không có giá trị. Nhà đầu tư lớn có điều kiện kiểm tra thông tin, nhưng những chi phí này cuối cùng DN cũng sẽ là người gánh chịu. Vì khi có quá nhiều DN tốt xấu, trắng đen lẫn lộn không thể phân biệt được thì nhà đầu tư sẽ có khuynh hướng chung là tăng thêm một phần bù cho rủi ro ngay cả với DN tốt bằng cách đòi hỏi tỷ suất sinh lợi cao hơn thông qua việc định giá cổ phiếu của DN đó thấp hơn so với mức lẽ ra một DN tốt có thể được hưởng. Đối với nhà đầu tư cá nhân, việc xác minh thông tin thật không dễ dàng và do vậy, thật dễ hiểu khi các nhà đầu tư nhỏ lẻ luôn có phản xạ theo hiệu ứng bầy đàn bằng cách nhìn theo động thái của nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư nước ngoài… Có lẽ đó là biện pháp khả dĩ nhất mà họ nghĩ là có thể tự bảo vệ  mình. Chính cách thức phản ứng theo đám đông như vậy sẽ tạo nên bất ổn cho thị trường và hơn nữa, nó sẽ khuyến khích xu thế đầu tư "lướt sóng" trong ngắn hạn hơn là lựa chọn đầu tư dài hạn. Tệ hơn, một số nhà đầu tư vốn lớn lợi dụng sự thiếu đồng bộ của thông tin được công bố để trục lợi cá nhân, liên minh khống chế thị trường…

 

Làm gì để ngày càng có nhiều BCTN có chất lượng tốt?

Vấn đề bất cân xứng thông tin trên TTCK nước ta là vấn đề mà từ lâu mọi người đều biết. Luật Chứng khoán và những thông tư hướng dẫn chi tiết về công bố thông tin đều đã được ban hành. Tuy vậy, xem ra những quy định và biện pháp chế tài hiện tại không cải thiện được tình hình. Vậy đâu là gốc của vấn đề? Câu trả lời là mặc dù các quy định về công bố thông tin đều đã được ban hành, nhưng khi " tất cả mọi người đều muốn đứng trong bóng tối"; khi mà phần lớn DN đều đang cung cấp thông tin mơ hồ cho nhà đầu tư mà không sợ sự trừng phạt của thị trường vì nhà đầu tư đang phải quan sát một đám đông đồng thuận lớn đến như vậy, thì gần như sẽ không DN nào dại gì mà tự nguyện đơn độc một mình đứng ra ánh sáng, vì lợi ích mang lại không đủ bù đắp thiệt hại. Như vậy, giải pháp căn cơ là làm sao để có được một thị trường mà mọi DN "đều muốn đứng ngoài ánh sáng" và khi đó không DN nào dám đơn độc đứng trong bóng tối. Nếu DN nào làm như vậy sẽ đồng nghĩa với việc phá sản: không nhà đầu tư nào dám mua cổ phiếu do DN này phát hành; không ngân hàng nào dám cho vay; và không nhà cung cấp nào dám duy trì chính sách tín dụng trả chậm… Để có được thành quả này, thiết nghĩ cần kết hợp đồng thời biện pháp hành chính và biện pháp thị trường. Trước hết, trong cái vòng luẩn quẩn hiệu ứng đám đông - chất lượng thông tin thấp - thiệt hại cho nhà đầu tư và thiệt hại cho cả DN, thì biện pháp chế tài mạnh mang tính răn đe nghiêm khắc là cần thiết để chuyển hiệu ứng đám đông từ tiêu cực sang tích cực. Chúng ta có thể hình dung về tác động tích cực và tiêu cực của hiệu ứng đám đông qua ví dụ sau: làm sao để mọi người khi ra đường đều đội mũ bảo hiểm? Mọi người đều biết lợi ích của đội mũ bảo hiểm lớn hơn những phiền toái khi phải mang theo nó, nhưng vẫn không ai chịu đội khi nhìn thấy xung quanh mọi người chẳng ai đội. Nhưng khi quy định được ban hành kèm biện pháp chế tài mạnh thì hiệu ứng đám đông lại phát huy vai trò tích cực, lúc này những người không chịu đội mũ bảo hiểm sẽ cảm thấy rủi ro cao hơn khi bị tách khỏi đám đông. Biện pháp đi kèm là tạo động lực cá nhân để những người dân chấp hành mang tính chiếu lệ, bằng cách cho họ thấy đội mũ bảo hiểm giúp bảo toàn tính mạng như thế nào. Trong thị trường tài chính cũng vậy: việc phát triển mạnh mẽ các nhà đầu tư có tổ chức, những nhà đầu tư luôn dựa vào phân tích cơ bản để chọn lựa và hình thành môi trường cạnh tranh công bằng sẽ tạo áp lực buộc các công ty đại chúng phải tự nguyện nâng chất lượng công bố thông tin, nếu những DN này muốn gia tăng giá trị thị trường của mình. 

 

Soạn thảo một BCTN hiệu quả như thế nào?

Khi hiệu ứng đám đông phát huy vai trò tích cực thì các DN sẽ có được động lực cá nhân mạnh mẽ để công bố thông tin chất lượng cao đến các nhà đầu tư. Trên thế giới, ngay cả tại các thị trường tài chính phát triển nhất, thì hầu như tất cả các DN đều có khuynh hướng trình bày BCTN của mình theo hướng "tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại", cùng với việc đầu tư khá công phu vào việc dàn trang trình bày sao cho thật bắt mắt, với rất nhiều hình ảnh minh họa ấn tượng về các sản phẩm nổi trội cũng như các sự kiện thành công của công ty trong năm. Họ thiết kế BCTN của mình không khác gì một brochure quảng cáo, nhằm gia tăng hiệu ứng tâm lý chứ không hẳn chỉ để che dấu chất lượng thông tin kém.

Tuy nhiên, xu thế soạn thảo một BCTN ngày nay đã có những thay đổi như sau:

Trước hết, đó là xu hướng soạn thảo BCTN thích ứng theo sự phát triển trong nhận thức của xã hội, khi mà hầu hết DN đều nhận thức được rằng, xã hội hiện đại đã thay đổi về những quan tâm của họ, họ yêu mến những DN biết quan tâm đến lợi ích chung của cộng đồng và đánh giá cao những DN không bắt con cháu của họ trả nợ cho các vấn đề về môi trường mà DN gây ra… Nếu DN nào nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng, điều đó có nghĩa rằng, DN đó sẽ có thêm cơ hội tăng trưởng bền vững trong dài hạn thay vì DN chỉ chăm chăm vào phô diễn lợi nhuận cho riêng cổ đông của mình. Ví dụ, lấy BCTN của 2 hãng xe hơi lớn trên thế giới là GM và Honda được công bố vào năm 2007, có thể thấy là trong BCTN của Honda với 136 trang, họ đã dành khá nhiều công sức để tách hẳn báo cáo về môi trường (Enviromental Report), báo cáo về trách nhiệm đối với xã hội của công ty - CSR (corporate social responsibility (CSR)) , báo cáo về các hoạt động giúp đỡ hỗ trợ cộng đồng- Philanthropy report) với mục tiêu là nhấn mạnh vào sứ mệnh và trách nhiệm của công ty đối với cộng đồng, thay vì chỉ tập trung vào đánh bóng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông của mình.

 Thứ hai, ngày càng có nhiều DN coi trọng việc thẳng thắn nhìn nhận những bất lợi của mình, cũng như không hề do dự khi đưa ra các phân tích về rủi ro tiềm ẩn hay những khó khăn đã và sẽ phải đối mặt kèm với cách thức để giải quyết khó khăn đó. Trong xã hội thông tin đa chiều và hiểu biết ngày càng phát triển thì cách gây ấn tượng và tạo lòng tin bằng thủ thuật tự khen mình đã trở nên lỗi thời, cách tốt nhất để thuyết phục lòng tin nơi người khác là chỉ cho họ thấy, bản thân mình giỏi đến mức nhận thức được rất rõ những điểm yếu của mình và đã hoạch định rõ ràng những biện pháp chiến lược cần thiết để khắc phục nó. Trong báo cáo của GM, các bạn có thể thấy họ dành khá nhiều "đất" cho việc đánh giá những nhân tố bất lợi cùng những rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng nhiều nhất đến kết quả kinh doanh của  hiện tại và trong tương lai và kèm theo đó là những giải pháp đề xuất.

Các công ty cổ phần đại chúng Việt Nam cần phải làm gì để gặt hái được thành quả tương xứng với nghĩa vụ công bố thông tin mà họ đã thực hiện? Thứ nhất, cần chấp nhận đầu tư chi phí thiết lập bộ phận chuyên trách về quan hệ với nhà đầu tư - IR (Investor Relations). Hiện tại, những DN lớn đã thành lập riêng cho mình một bộ phận chuyên trách như vậy và xác định rõ trách nhiệm của từng người, từng bộ phận liên quan đến chất lượng của bản báo cáo. Mặc dù DN mong muốn nâng chất lượng thông tin công bố, nhưng nếu không đầu tư nghiêm túc vào khâu soạn thảo, phân tích và thiết kế thì hiệu quả công bố mang lại sẽ không được cải thiện đáng kể. Thứ hai, DN cũng cần cần hiểu rằng, xây dựng mối quan hệ tốt với cộng đồng cũng không kém phần quan trọng với nhà đầu tư. Điều này có nghĩa DN không chỉ công bố thông tin về mình theo hướng dẫn của các mẫu BCTN, mà DN cần công bố bổ sung các cam kết công khai của mình về các chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh, cũng như trách nhiệm mà công ty sẽ thực hiện đối với cộng đồng.

Tin liên quan:

Vũ Việt Quảng, Khoa Tài chính DN, Trường đại học Kinh tế TP. HCM
Vũ Việt Quảng, Khoa Tài chính DN, Trường đại học Kinh tế TP. HCM

Tin cùng chuyên mục