Thông tin trên đang thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, cũng như các cơ quan quản lý nhà nước, khi trong tuần này, lãnh đạo Bộ Giao thông - Vận tải đã báo cáo trực tiếp Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước và Ủy ban An ninh - Quốc phòng của Quốc hội.
Cần phải khẳng định, bên cạnh lý do an ninh quốc phòng, việc chưa đưa ra được những hình thức hợp tác có tính khả thi cao đã khiến cả cơ quan quản lý nhà nước và các nhà đầu tư chưa thực sự mặn mà kêu gọi hay bỏ vốn vào hạ tầng hàng không. Sự thiếu vắng của các nhà đầu tư tư nhân làm cho thị trường khai thác, vận hành các cảng hàng không thiếu đi sự cạnh tranh, từ đó khó có thể nâng cao chất lượng dịch vụ.
Nhà nước cũng bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn trong khi nhu cầu vốn vào lĩnh vực này rất lớn, vượt quá khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước. Trong khi đó, việc nhượng quyền khai thác cảng hàng không, tuy mới ở Việt Nam, nhưng lại là hình thức xã hội hóa đầu tư vào hạ tầng hàng không rất phổ biến trên thế giới.
Trên thực tế, việc xã hội hóa vào lĩnh vực hàng không là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với Hiến pháp năm 2013, Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam và nghị quyết của Đảng.
Theo đó, những dự án tư nhân có thể làm được thì sẽ để cho tư nhân làm. Nhà nước chỉ đầu tư những dự án, lĩnh vực mà tư nhân không tham gia và những lĩnh vực mà Nhà nước phải giữ cổ phần chi phối liên quan đến an ninh quốc phòng. Trong ngành hàng không, kết cấu hạ tầng nhà ga, hệ thống dịch vụ phi hàng không là những lĩnh vực hoàn toàn có thể xã hội hóa mà không làm ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng.
Tuy nhiên, hiện vẫn còn không ít vướng mắc về cơ chế pháp lý cần phải giải quyết để chủ trương mới này sớm được triển khai trên thực tế. Đầu tiên là việc các cơ quan quản lý nhà nước cần sớm xây dựng được những định hướng cơ bản đối với việc thực hiện xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng hàng không theo nguyên tắc không ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh quốc gia; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước và nhà đầu tư, xã hội; không ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước và các dịch vụ công do Nhà nước trực tiếp cung cấp theo quy định.
Bên cạnh đó, ngoài việc sớm hoàn thành các đề án chuyển nhượng có tính khả thi cao dưới hình thức đấu giá cạnh tranh, minh bạch trong trường hợp có ít nhất hai nhà đầu tư cùng tham gia đề xuất, các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần xây dựng được cơ chế giám sát các cam kết của nhà đầu tư liên quan tới việc chống độc quyền khai thác, kiểm soát giá cả dịch vụ.
Những yêu cầu mang tính bắt buộc trên nhằm đảm bảo việc sau khi xã hội hóa, chuyển nhượng quyền khai thác cho các nhà đầu tư, hoạt động khai thác sân bay phải tốt hơn, hiệu quả hơn, hành khách đi máy bay phải được hưởng các dịch vụ tốt tại sân bay, với chất lượng cao hơn với chi phí hợp lý nhất. Đây mới chính là đích đến cuối cùng của chủ trương xã hội hóa đầu tư vào lĩnh vực có nhiều nét đặc thù này.