ASEAN nên khai thác thương mại, số hóa và kết nối khi dòng đầu tư chuyển hướng

(ĐTCK) Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nên tận dụng thương mại, du lịch và số hóa để thúc đẩy khả năng phục hồi kinh tế và tăng trưởng bền vững trong bối cảnh kinh tế toàn cầu không chắc chắn.

Có một cảm giác ngày càng tăng rằng nền kinh tế toàn cầu đang hướng tới kỷ nguyên cạnh tranh gay gắt hơn khi các quốc gia đang chuyển dịch sản xuất trở về nước. Nhiều quốc gia đang đưa chuỗi cung ứng của họ trở về nước để giảm rủi ro do gián đoạn. Những quốc gia khác đang triển khai thuế quan và các rào cản khác để thúc đẩy chương trình nghị sự trong nước của họ.

Các vấn đề xung quanh biến đổi khí hậu và sự cạnh tranh xung quanh công nghệ tiên tiến (trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, internet vạn vật) ngày càng được thảo luận như các vấn đề về an ninh quốc gia.

Để giải quyết những vấn đề này, 10 quốc gia trong ASEAN phải cùng nhau hợp tác để đạt được mục tiêu về tương lai kinh tế tốt đẹp hơn cho người dân và bảo vệ lợi ích quốc gia của mình. Việc cần phải làm là tập trung nỗ lực đặc biệt vào thương mại, số hóa và kết nối. Các quốc gia thành viên ASEAN nên coi hành động tập thể của mình là lợi ích công cộng của khu vực, nơi lợi ích từ hoạt động thương mại, du lịch, số hóa và kết nối mở rộng sẽ mang lại kết quả bền vững và khả năng chống chịu cho người dân trong khu vực.

Thương mại có khả năng tập trung vào các dịch vụ, bao gồm các giao dịch xuyên biên giới trong lĩnh vực tài chính, viễn thông, du lịch, vận tải và các dịch vụ kinh doanh khác, như dịch vụ chuyên gia và tư vấn. Mỗi dịch vụ này đều đóng vai trò quan trọng ở các nước ASEAN về mặt tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế. Sau COVID-19, trước sự suy thoái của thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ đã cho thấy động lực tích cực và thậm chí đưa ASEAN trở thành nước xuất khẩu dịch vụ ròng.

Dịch vụ du lịch, đặc biệt, hứa hẹn cho ASEAN vì nó làm nổi bật sức hấp dẫn của ASEAN như một điểm đến du lịch. Do đó, trong khi hướng tới mục tiêu tạo ra một ngành du lịch cạnh tranh, các nước ASEAN dự kiến ​​sẽ cùng nhau làm việc về các yếu tố hỗ trợ du lịch như cơ sở hạ tầng, phát triển kỹ năng, xúc tiến tiếp thị, phát triển sản phẩm và các yếu tố khác để tăng cường du lịch trong khu vực tại ASEAN, hiện chiếm hơn 40% tổng lượng du lịch quốc tế của ASEAN, góp phần vào khả năng phục hồi kinh tế của khu vực.

Nền kinh tế số (bao gồm thương mại điện tử, y tế điện tử, thanh toán điện tử, tự động hóa hải quan) ở cấp khu vực dự kiến ​​sẽ tăng trưởng từ 300 tỷ đô la lên gần 1 nghìn tỷ đô la vào năm 2030. Con số này được cho là sẽ đạt 2 nghìn tỷ đô la nếu các chính sách kết nối số phù hợp được đưa ra thông qua hợp tác khu vực.

Thỏa thuận khung kinh tế số là yếu tố chính của sự hợp tác này. Thỏa thuận tập trung vào các tiêu chuẩn kỹ thuật số, luồng dữ liệu, an ninh mạng, thương mại kỹ thuật số, tính di động của nhân tài và cơ sở hạ tầng công cộng kỹ thuật số khác.

Những lợi ích bổ sung từ hợp tác kỹ thuật số được kỳ vọng thông qua tác động tích cực đến khí hậu, tạo ra 12-30 tỷ đô la tiết kiệm chi phí xã hội, tăng cường khả năng phục hồi, tạo việc làm mới và cải thiện khả năng tiếp cận của mọi người đối với các nguồn lực giáo dục và chăm sóc sức khỏe.

Cuối cùng, kết nối vừa mang tính vật lý vừa mang tính thể chế được kỳ vọng sẽ phục vụ cho khả năng cạnh tranh kinh tế của các nước ASEAN, nâng cao năng lực của họ để tương tác tốt hơn với các nền kinh tế lớn hơn của châu Á và các châu lục khác. Cơ sở hạ tầng bền vững - năng lượng sạch, vận tải ít carbon và cải thiện hiệu quả năng lượng cho cơ sở hạ tầng đô thị - đang ngày càng được chú ý.

Kết hợp điều này với sự hợp tác lớn hơn xung quanh quá trình số hóa, hậu cần xuyên biên giới liền mạch và chuỗi cung ứng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển hàng hóa, dịch vụ và con người xuyên biên giới sẽ bảo vệ môi trường và thúc đẩy khả năng phục hồi của các quốc gia trong khu vực.

Tư duy tập thể về cơ sở hạ tầng bền vững sẽ hữu ích cho các quốc gia thành viên ASEAN đã cam kết tham gia Thỏa thuận Paris và cam kết đóng góp do quốc gia tự quyết định hướng tới mục tiêu phát thải carbon dioxide (CO2) ròng bằng 0 vào năm 2050 và phát thải khí nhà kính ròng bằng 0 vào năm 2065, nhằm hạn chế nhiệt độ tăng không quá 1,5°C.

Đây là thời điểm thích hợp để các nhà hoạch định chính sách ASEAN suy nghĩ lại về những cách thức hợp tác cùng nhau. Mặc dù có những dấu hiệu về sự phân mảnh kinh tế ở cấp độ toàn cầu, nhưng cũng có những lĩnh vực đòi hỏi sự hợp tác xuyên biên giới.

Độc lập kinh tế đã tăng lên theo thời gian trong khu vực. Với các vấn đề cấp bách mới nổi về số hóa và biến đổi khí hậu, sự phụ thuộc lẫn nhau không được quản lý tốt có thể dẫn đến chi phí và dẫn đến những thất bại về kinh tế.

Do đó, đối với nhiệm kỳ tiếp theo của hợp tác khu vực ASEAN 2045, các quốc gia thành viên nên coi các hành động tập thể của mình là một lợi ích công cộng của khu vực, nơi lợi ích từ hoạt động thương mại, du lịch, số hóa, kết nối lớn hơn sẽ mang lại kết quả bền vững và phục hồi cho người dân trong khu vực.

Bà Sanchita Basu-Das, Chuyên gia kinh tế, Ban Hợp tác và Hội nhập Khu vực, Vụ Nghiên cứu và Phát triển Tác động Kinh tế của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục