Áp lực tăng vốn đáp ứng Basel III

(ĐTCK)  Nợ xấu gia tăng đang tạo áp lực đáng kể lên năng lực tài chính của các ngân hàng khi phải trích lập dự phòng lớn hơn, lợi nhuận bị thu hẹp, vốn tự có bị bào mòn, khiến yêu cầu tăng vốn trở nên cấp bách để duy trì hệ số an toàn vốn.
Hiện tại, nhiều ngân hàng có vốn cấp 1 ở mức thấp

Nợ xấu trong tầm kiểm soát…

Tính đến cuối quý III/2025, tỷ lệ nợ xấu của VPBank hợp nhất theo Thông tư số 31/2024/TT-NHNN (quy định về phân loại tài sản có trong hoạt động của ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) được kiểm soát chặt chẽ, giảm xuống dưới ngưỡng 3%; nợ xấu riêng lẻ tiếp tục xu hướng cải thiện, ở mức 2,23%.

Tỷ lệ nợ xấu của Nam A Bank ở mức 2,53% (trước CIC) và 2,73% sau CIC quay đầu giảm so với mức 2,85% của kỳ 30/6/2025.

Đáng chú ý, tại Agribank, tỷ lệ nợ xấu nội bảng giảm xuống còn 1,19% - giảm 0,39% so với đầu năm và phấn đấu dưới 1% khi kết thúc năm 2025. Đây là tỷ lệ nợ xấu thấp nhất của ngân hàng này từ khi triển khai phương án cơ cấu lại giai đoạn 1 năm 2013 đến nay.

Trong số 12 ngân hàng công bố kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm 2025 (tính đến ngày 23/10/2025), phần lớn đều cho thấy tình hình nợ xấu đã được cải thiện, trừ LPBank và PGBank. Theo đó, số liệu tính đến quý III/2025 của LPBank cho biết, số dư nợ xấu tăng 32,4% lên 6.961 tỷ đồng, kéo theo tỷ lệ nợ xấu tăng từ 1,58% lên 1,79%. Tương tự, số dư nợ xấu PGBank tăng 61% lên 1.708 tỷ đồng (tăng ở cả 3 nhóm nợ), dẫn tới tỷ lệ nợ xấu tăng từ 2,57% lên 3,85%.

Bức tranh ban đầu nợ xấu ngành ngân hàng có những khác biệt nhất định, nhưng đây là một câu chuyện “nóng” của ngành ngân hàng. Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và 5 năm 2021-2025; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026 và 5 năm 2026-2030 của Ngân hàng Nhà nước vừa gửi Quốc hội cũng đề cập đến vấn đề này khi cho biết, xác định xử lý nợ xấu một cách thực chất, hiệu quả là một trong các nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt gắn với công tác cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước đã sát sao, quyết liệt chỉ đạo toàn ngành triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp để kiểm soát và xử lý nợ xấu.

Kết quả cụ thể được Ngân hàng Nhà nước nêu rõ như sau, tính từ năm 2021 đến cuối tháng 7/2025, toàn hệ thống đã xử lý được 1,146 triệu tỷ đồng nợ xấu, trong đó chủ yếu là tổ chức tín dụng tự xử lý đạt 998.400 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 87,1%; còn lại là bán nợ (bao gồm bán cho VAMC, bán cho tổ chức, cá nhân khác) đạt 147.700 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 12,9%. Tính riêng trong 7 tháng đầu năm 2025, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng xử lý được 187.400 tỷ đồng nợ xấu, trong đó chủ yếu thực hiện thông qua hình thức sử dụng dự phòng rủi ro (chiếm tỷ trọng 49%) và khách hàng trả nợ (chiếm tỷ trọng 33,4%).

Theo Báo cáo, nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng tiếp tục được tập trung xử lý, tỷ lệ nợ xấu nội bảng (không bao gồm các ngân hàng đang được kiểm soát đặc biệt) duy trì dưới mức 3% theo mục tiêu của Đề án 689 và tính đến cuối tháng 7/2025 ở mức 1,69%.

TS. Cấn Văn Lực - chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV nhận định, nợ xấu vẫn trong tầm kiểm soát nhờ tín dụng tăng mạnh, dự báo đạt 16-17% năm nay, qua đó góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu. Đáng chú ý, với việc cơ chế, chính sách thuận lợi hơn đến từ Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi (2025) đã được thông qua và có hiệu lực từ ngày 15/10/2025 cho phép các tổ chức tín dụng có quyền thu giữ tài sản bảo đảm khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của Chính phủ kỳ vọng sẽ giúp việc xử lý nợ xấu thuận lợi hơn.

Ngân hàng Nhà nước cho biết thêm, thời gian tới, cơ quan quản lý tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng quyết liệt thực hiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025. Tập trung thực hiện phương án xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, triển khai cơ cấu lại các ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt theo chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền. Đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh.

… nhưng vẫn gây sức ép lên năng lực tài chính các ngân hàng

Tăng vốn không chỉ là yêu cầu tuân thủ quy định an toàn, mà còn là điều kiện tiên quyết giúp ngân hàng củng cố sức khỏe tài chính và bảo đảm thanh khoản ổn định trong bối cảnh nợ xấu còn tiềm ẩn rủi ro.

Nhiều ý kiến cho rằng, xử lý nợ xấu chỉ là một phần trong những thách thức hiện nay mà các ngân hàng phải đối mặt. Hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn được “gọi tên”.

Ông Lê Hoài Ân - CFA, Founder IFSS (Công ty Giải pháp tài chính tích hợp) cho biết, nợ xấu đang tạo áp lực đáng kể lên năng lực tài chính của các ngân hàng khi phải trích lập dự phòng lớn hơn, lợi nhuận bị thu hẹp, vốn tự có bị bào mòn, khiến yêu cầu nâng vốn trở nên cấp bách để duy trì hệ số an toàn vốn. Trong khi đó, khả năng tăng vốn từ lợi nhuận giữ lại hạn chế, còn huy động từ thị trường lại gặp khó do niềm tin nhà đầu tư suy giảm. Nếu không kịp thời bổ sung vốn, ngân hàng có nguy cơ bị thu hẹp khả năng cấp tín dụng, làm giảm vai trò hỗ trợ nền kinh tế.

“Vì thế, tăng vốn không chỉ là yêu cầu tuân thủ quy định an toàn, mà còn là điều kiện tiên quyết giúp ngân hàng củng cố sức khỏe tài chính và bảo đảm thanh khoản ổn định trong bối cảnh nợ xấu còn tiềm ẩn rủi ro”, ông Ân nói.

Ông Nguyễn Anh Quân - Trưởng Bộ phận Xếp hạng tín nhiệm định chế tài chính, FiinRatings nhận định, việc luật hóa Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng cho thấy nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý nhằm xử lý căn cơ các điểm nghẽn về nợ xấu. Tuy nhiên, đây chỉ là một phần thách thức hiện nay, phần còn lại nằm ở khả năng duy trì tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng, đảm bảo hệ thống có sức chống chịu dài hạn.

Theo ông Quân, việc luật hóa Nghị quyết 42 dù không có tác động trực tiếp đến tỷ lệ an toàn vốn, nhưng trong tương lai có thể mang lại những tác động gián tiếp, chủ yếu thông qua việc hoàn thiện khung pháp lý, từ đó góp phần cải thiện cách nhìn nhận về rủi ro trong cho vay thế chấp. Một ví dụ điển hình là việc cải thiện điểm BICRA của Việt Nam bởi S&P Global Ratings đã dẫn tới thay đổi trong đánh giá của tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế này về hệ số rủi ro tài sản (asset risk weights) của các ngân hàng, qua đó nâng cao đánh giá về bộ đệm vốn của các ngân hàng này.

Tuy vậy, ông Quân cho rằng, các tác động gián tiếp này chưa đủ để giải quyết vấn đề hạn chế về bộ đệm vốn (capital constraints) ảnh hưởng đến ngành trong 1-2 năm vừa qua, do không có ảnh hưởng trực tiếp giúp nâng cao bộ đệm vốn chủ sở hữu. Do vậy, gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành và áp dụng Thông tư 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đánh dấu sự chuyển đổi dần từ Basel II sang Basel III với lộ trình nâng tỷ lệ vốn cấp 1 (CET1) tối thiểu lên khoảng 7% và tỷ lệ an toàn vốn tổng thể (CAR), bao gồm cả bộ đệm, lên tối thiểu khoảng 10,5%.

“Theo quan sát của chúng tôi, năm 2024 cho thấy bộ đệm vốn cấp 1 còn mỏng và phân hóa rõ rệt, chỉ số ít ngân hàng tư nhân đạt mức vốn cấp 1 cao, trong khi nhiều ngân hàng có vốn nhà nước chi phối và ngân hàng quy mô nhỏ vẫn đối diện áp lực đáng kể trong việc nâng vốn để đáp ứng Basel III. Từ đó, đặt ra yêu cầu cao hơn đối với năng lực vốn và thanh khoản cho hệ thống ngân hàng Việt Nam”, ông Quân nói.

Nhìn chung, ông Quân nhận định, trong khi tỷ lệ an toàn vốn phản ánh sức chống chịu dài hạn của hệ thống, thì việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ gián tiếp giúp các ngân hàng củng cố nền tảng vốn, hướng tới sự ổn định bền vững hơn trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng nhanh để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế.

Nhuệ Mẫn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục