Mới đây, TAND thị xã Tân Châu (tỉnh An Giang) đã đưa xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Trọng Phúc (SN 1984, ở thị xã Tân Châu, An Giang, cựu nhân viên Ngân hàng S.).
Quá trình xét hỏi làm rõ, năm 2018, Phúc có khoản nợ 450 triệu đồng của bà Nguyễn Thị Ngọc T. Cùng thời gian này, ông Trần Văn H. đến ngân hàng vay đáo hạn số tiền 450 triệu đồng. Hồ sơ vay, thủ tục do Phúc hướng dẫn ông H. Đến ngày 4/12/2018, Ngân hàng đã giải ngân cho ông H. số tiền trên vào tài khoản. Do ông H. không đăng ký dịch vụ nhận tin nhắn qua điện thoại nên không hay biết.
Chiều cùng ngày, Phúc thông báo sẽ trả tiền cho bà T. và nhắn bà T. cầm chứng minh thư nhân dân đến ngân hàng để rút tiền. Khi đến ngân hàng, bà T. ký tên vào giấy lĩnh tiền và rút số tiền 450 triệu đồng một cách dễ dàng. Thực chất đây là khoản tiền vay đáo hạn của ông H. nhưng Phúc đã “phù phép” để chuyển sang tài khoản của bà T.
Còn về phía ông H. sốt ruột vì nhiều ngày không thấy được vay tiền nên gọi điện cho Phúc hỏi tình hình. Phúc hẹn ông H. ra quán cà phê, hứa sẽ cho ông H. mượn trước 80 triệu đồng và vài ngày sau sẽ giải ngân đầy đủ số tiền ông H. vay ngân hàng. Vài ngày sau, Phúc mang tiền cho ông H. vay trước 80 triệu đồng.
Cùng thời gian này, để đắp đổi món vay của ông H., Phúc tiếp tục lấy số tiền 380 triệu đồng từ khoản vay của khách hàng khác là chị Nguyễn Thị Thu Th. để đưa cho ông Phúc. Đến ngày 3/1/2019, bị cáo tự ý nghỉ việc. Lúc này có một số khách hàng đã đến phòng giao dịch để đòi tiền Phúc.
Ngân hàng đã rà soát danh sách khách hàng vay vốn do Phúc phụ trách thì phát hiện trường hợp chị Th. có khoản nợ 380 triệu đồng. Khi được ngân hàng thông báo, chị Th. mới vỡ lẽ, hồ sơ vay được giải ngân nhưng chị không nhận được tiền.
Năm 2019, chị Th. đã tố cáo hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Phúc, yêu cầu bị cáo phải trả lại gốc và lãi tổng cộng là 416 triệu đồng.
Tại tòa bị cáo không thừa nhận phạm tội, tuy nhiên lời khai tại cơ quan điều tra, bị cáo thừa nhận, do nhiều người đòi tiền nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Đối chất lời khai tại tòa có căn cứ xác định bị cáo đã yêu cầu nhân viên thanh toán chuyển số tiền 380 triệu đồng từ tài khoản của chị Th. sang số tài khoản của ông H. Mặt khác, giữa chị Th. và ông H. không có quan hệ thân thiết hay làm ăn, vay tiền với nhau nên lời khai của bị cáo là không có căn cứ.
Do đó, tòa án xử phạt bị cáo 7 năm tù, buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 416 triệu đồng.