AI góp phần hiện thực hóa chuyển đổi số ngân hàng

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Báo Tài chính - Đầu tư đã có cuộc phỏng vấn ông Lê Hoàng Chính Quang - Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin (NHNN) về ứng dụng AI, khoa học công nghệ và việc khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu quốc gia nhằm thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số.
Ông Lê Hoàng Chính Quang - Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin (NHNN) Ông Lê Hoàng Chính Quang - Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin (NHNN)

Ngành ngân hàng luôn tiên phong trong ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trong đó có ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) góp phần nâng cao trải nghiệm khách hàng, cá nhân hóa sản phẩm, dịch vụ, đồng thời ứng dụng AI trong quản trị rủi ro nhằm đảm bảo an ninh, an toàn, tự động hóa sâu rộng các quy trình nghiệp vụ cốt lõi.

Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ nghiên cứu hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ phát triển AI, bảo đảm AI trong ngân hàng được thử nghiệm - được sử dụng - được quản lý an toàn, minh bạch, đúng luật, góp phần thúc đẩy mục tiêu chuyển đổi số toàn ngành ngân hàng.

Ngân hàng là một trong những ngành đi đầu trong ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, ông có thể chia sẻ những kết quả nổi bật mà hệ thống ngân hàng đã đạt được trong thời gian qua?

Với quan điểm tiếp cận lấy người dân làm trung tâm và sự thuận tiện, trải nghiệm của người sử dụng dịch vụ là thước đo, ngành ngân hàng đã thực hiện nhiều giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong giai đoạn mới và đạt được nhiều kết quả tích cực, cụ thể như sau:

Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện thể chế. NHNN nghiên cứu, tham mưu trình các cấp ban hành và ban hành theo thẩm quyền nhiều văn bản quy phạm pháp luật về ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, thanh toán không dùng tiền mặt như: Luật Phòng, chống rửa tiền; Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD); Nghị định quy định về thanh toán không dùng tiền mặt; Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng và các Thông tư hướng dẫn... Đồng thời, NHNN đang xây dựng Nghị định quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ tiền di động nhằm tăng cường việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ thanh toán, đặc biệt tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo của Việt Nam.

Ngành ngân hàng đang đẩy mạnh chuyển đổi số

Ngành ngân hàng đang đẩy mạnh chuyển đổi số

Thứ hai, phát triển và nâng cấp hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Hạ tầng phục vụ chuyển đổi số ngành ngân hàng luôn được chú trọng đầu tư, nâng cấp, phát triển. Hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng hoạt động thông suốt, an toàn, hiệu quả. Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử do Công ty cổ phần Thanh toán Quốc gia (Napas) tổ chức vận hành tiếp tục đẩy mạnh tích hợp, kết nối sản phẩm, dịch vụ, nền tảng với các ngành, lĩnh vực khác để cung cấp dịch vụ công qua Cổng dịch vụ công Quốc gia, tập trung vào các lĩnh vực y tế, giáo dục, giao thông.

Trong 9 tháng đầu năm 2025, giao dịch qua Hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng 4,56% về số lượng và 46,87% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024; Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 19,14% về số lượng và 5,87% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Mạng lưới ATM, POS bao phủ: Toàn thị trường có gần 21.000 ATM và 829.308 POS; mạng lưới chấp nhận thanh toán (POS/QR Code) phủ đến hầu hết các địa phương trên toàn quốc.

Thứ ba, phát triển hệ sinh thái sản phẩm và dịch vụ số ngân hàng. Hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ số của ngành ngân hàng với nhiều phương thức thanh toán hiện đại, tiện lợi được kết nối liên thông, tích hợp liền mạch, xuyên suốt với các ngành, lĩnh vực khác. Nhiều chỉ tiêu của các TCTD đã vượt kế hoạch: 56% nghiệp vụ ngân hàng cho phép khách hàng thực hiện hoàn toàn trên môi trường số (vượt mục tiêu 50% đề ra cho năm 2025); 87% người trưởng thành có tài khoản thanh toán tại ngân hàng (vượt mục tiêu 50% đề ra cho năm 2025); 70% giao dịch thực hiện trên kênh số (đạt mục tiêu đề ra cho năm 2025), trong đó nhiều TCTD tại Việt Nam có tỷ lệ trên 95%. Các TCTD cũng đã tích cực ứng dụng công nghệ mới như AI, dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), nhận diện sinh trắc học… vào phát triển các mô hình ngân hàng số, chi nhánh tự phục vụ.

Giá trị thanh toán không dùng tiền mặt năm 2024 gấp 25 lần GDP. Trong 9 tháng đầu năm 2025 so với cùng kỳ năm 2024, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 43,32% về số lượng và 24,23% về giá trị; qua kênh internet tăng 51,2% về số lượng và 37,17% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng 37,37% về số lượng và 21,79% về giá trị; qua phương thức QR code tăng 61,63% về số lượng và 150,67% về giá trị.

Thứ tư, kết nối và liên thông dữ liệu. NHNN đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an triển khai Đề án 06 để làm sạch dữ liệu, xác minh thông tin và đối chiếu thông tin sinh trắc học của khách hàng, hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ. Tính đến hết ngày 31/10/2025, toàn ngành có hơn 135,3 triệu hồ sơ khách hàng cá nhân (CIF) được đối chiếu thông tin sinh trắc học qua căn cước công dân gắn chip hoặc ứng dụng VNeID (đạt hơn 100% tổng lượng tài khoản cá nhân phát sinh giao dịch trên kênh số); hơn 1,4 triệu hồ sơ khách hàng tổ chức đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học (đạt hơn 100% tổng số lượng tài khoản thanh toán tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số), trong đó có 57 TCTD đã triển khai thực tế ứng dụng thẻ căn cước công dân gắn chip qua ứng dụng điện thoại, 63 TCTD đã triển khai thực tế ứng dụng thẻ căn cước công dân gắn chip qua thiết bị tại quầy, 16 TCTD đã triển khai ứng dụng VNeID; 28 TCTD đã triển khai liên kết tài khoản an sinh xã hội với tài khoản ngân hàng phục vụ cho chi trả an sinh xã hội thông qua ứng dụng VNeID.

Thứ năm, đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán và các hệ thống thông tin ứng dụng nghiệp vụ ngân hàng; phòng chống tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực ngân hàng. NHNN thường xuyên, chủ động theo dõi, chỉ đạo các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán. Hệ thống thông tin hỗ trợ quản lý, giám sát và phòng ngừa rủi ro cho khách hàng (SIMO) của NHNN đã triển khai thí điểm và đến hết ngày 31/10/2025, hơn 1,7 triệu lượt khách hàng nhận được cảnh báo, trong đó hơn 567.000 lượt khách hàng đã tạm dừng/hủy bỏ giao dịch sau khi nhận được cảnh báo, với tổng số tiền giao dịch là hơn 2.200 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tội phạm công nghệ cao; kiểm tra chuyên đề về công tác bảo đảm an toàn thông tin; phối hợp diễn tập ứng cứu sự cố an toàn thông tin; đào tạo chuyên gia an toàn thông tin; điều tra, cung cấp thông tin truy vết tội phạm sử dụng công nghệ cao liên quan đến ngành ngân hàng.

Các TCTD đã và đang ứng dụng AI để nâng cao trải nghiệm khách hàng, cá nhân hóa dịch vụ

Các TCTD đã và đang ứng dụng AI để nâng cao trải nghiệm khách hàng, cá nhân hóa dịch vụ

Như đề cập ở trên, các TCTD đang đẩy mạnh khai thác Big Data, điện toán đám mây và đặc biệt là ứng dụng AI trong vận hành. Theo ông, việc ứng dụng công nghệ này đã tạo ra bước tiến cụ thể nào cho hoạt động của ngành?

Các TCTD đã và đang ứng dụng AI vào 3 trụ cột chính:

Một là, nâng cao trải nghiệm khách hàng và cá nhân hóa dịch vụ, với các sản phẩm như trợ lý ảo (chatbot hỗ trợ, giải đáp thắc mắc của khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác và liền mạch 24/7) và các sản phẩm, dịch vụ được “may đo” riêng biệt.

Hai là, ứng dụng trong quản trị rủi ro, đảm bảo an ninh, an toàn. AI được áp dụng sâu rộng ngay từ khâu định danh eKYC, sau đó là phân tích hành vi giao dịch của khách hàng theo thời gian thực để phát hiện dấu hiệu bất thường, các thủ đoạn gian lận mới, chủ động hiển thị cảnh báo lừa đảo trước khi khách hàng xác nhận giao dịch.

Ba là, tự động hóa sâu rộng các quy trình nghiệp vụ cốt lõi. Nổi bật là việc số hóa và tự động hóa quy trình tín dụng, từ khâu tiếp nhận hồ sơ, ứng dụng AI để chấm điểm tín dụng, thẩm định đến phê duyệt và giải ngân các khoản vay bằng phương tiện điện tử. Việc này không chỉ giúp rút ngắn đáng kể thời gian xử lý từ vài ngày xuống còn vài giờ hoặc vài phút, mà còn giảm thiểu chi phí vận hành, hạn chế sai sót do con người và nâng cao tính minh bạch.

Nhìn chung, việc triển khai AI trong ngành ngân hàng đang đi đúng hướng và bước đầu gặt hái được những kết quả tích cực, tập trung giải quyết các bài toán thực tiễn về trải nghiệm khách hàng, an toàn bảo mật và tối ưu hóa vận hành, góp phần quan trọng vào sự phát triển ổn định và bền vững của ngành.

Thời gian tới, NHNN có kế hoạch gì để hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ các ngân hàng, các định chế tài chính và các công ty công nghệ tài chính (Fintech) phát triển AI, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu chuyển đổi số quốc gia?

NHNN sẽ nghiên cứu hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ phát triển AI và thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng theo một số định hướng:

Thứ nhất, bám sát các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về AI (dự thảo Luật AI do Bộ Khoa học và Công nghệ đang chủ trì xây dựng, dự kiến trình Quốc hội ban hành trong năm 2025). Trên cơ sở Luật AI được ban hành, NHNN sẽ nghiên cứu và xây dựng hướng dẫn ứng dụng AI trong hoạt động ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành ngân hàng. Bên cạnh đó, yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt về an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân khi ứng dụng AI theo Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Luật An ninh mạng…

Thứ hai, NHNN sẽ cụ thể hóa thành chiến lược và hướng dẫn chuyên ngành. Ngày 03/11/2025, NHNN đã ban hành Chiến lược chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2030 và Chiến lược dữ liệu ngành ngân hàng đến năm 2030, trong đó chỉ đạo các TCTD tiếp tục tăng cường ứng dụng AI trong các hoạt động nghiệp vụ.

Thứ ba, vận hành cơ chế thử nghiệm (sandbox) có kiểm soát: Triển khai Nghị định 94/2025/NĐ-CP về sandbox trong lĩnh vực ngân hàng; ưu tiên các giải pháp dùng AI trong chấm điểm tín dụng, chia sẻ dữ liệu qua giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API), cho vay ngang hàng. Sandbox giúp thử nghiệm an toàn, đo lường rủi ro - lợi ích trước khi chuyển hóa kết quả thành quy định lâu dài.

Thứ tư, bảo đảm an toàn hệ thống thông tin, dữ liệu. Mở rộng liên thông với các cơ sở dữ liệu quốc gia/chuyên ngành để bảo đảm dữ liệu trong ngành ngân hàng “đúng - đủ - sạch - sống”. Đồng thời, tuân thủ các chuẩn an toàn theo Thông tư 09/2020/TT-NHNN về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng và Thông tư 50/2024/TT-NHNN về bảo đảm an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành ngân hàng.

Với các định hướng nêu trên sẽ bảo đảm AI trong ngân hàng được thử nghiệm - được sử dụng - được quản lý an toàn, minh bạch, đúng luật, góp phần thúc đẩy mục tiêu chuyển đổi số toàn ngành ngân hàng.

Một vấn đề đang được quan tâm là để phát triển được AI thì dữ liệu phải đáp ứng yêu cầu chung là “sạch, sống, an toàn”. Do đó, việc kết nối và khai thác các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành (như cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, định danh và xác thực điện tử, cơ sở dữ liệu doanh nghiệp...) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. NHNN định hướng ra sao trong việc khai thác các nguồn dữ liệu này để phát triển dịch vụ tài chính số an toàn, thuận tiện cho người dân?

Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia đang diễn ra mạnh mẽ, ngành ngân hàng đã và đang chủ động thực hiện nhiều giải pháp then chốt nhằm tích hợp, kết nối và khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu quốc gia, phục vụ công tác quản lý nhà nước và hỗ trợ hoạt động nghiệp vụ của toàn ngành.

Một trong những ưu tiên hàng đầu là đảm bảo tính chính xác thông tin người dùng. NHNN đã tích hợp thành công Cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư vào hệ thống dịch vụ công và đang tiếp tục hoàn thiện việc kết nối này để phục vụ các nghiệp vụ quan trọng như phòng chống rửa tiền và thông tin tín dụng. Hoạt động này có ý nghĩa chiến lược, cho phép NHNN thực hiện đối soát thông tin người dùng một cách nhanh chóng, tin cậy, nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát. Các TCTD và tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cũng đang tích cực phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an để triển khai “làm sạch” dữ liệu khách hàng hiện có. Quá trình này giúp chuẩn hóa thông tin, loại bỏ sai sót, định danh chính xác khách hàng, qua đó góp phần quan trọng vào công tác phòng, chống rửa tiền và ngăn chặn gian lận tài chính.

Về mở rộng kết nối liên ngành, để tạo ra một hệ sinh thái dữ liệu liền mạch, NHNN đang tận dụng hiệu quả Trục liên thông văn bản quốc gia (NDXP) để kết nối, khai thác thông tin từ nhiều bộ, ngành khác. Quá trình này giúp NHNN truy cập và xác thực thông tin đa chiều, giảm thiểu thủ tục giấy tờ. Các kết nối quan trọng đang được thực hiện bao gồm: một là, cơ sở dữ liệu đăng ký doanh nghiệp để xác thực thông tin pháp lý của doanh nghiệp; hai là, cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) để đảm bảo tuân thủ pháp luật và cập nhật quy định; ba là, hệ thống dịch vụ hành chính công của Tổng công ty Bưu điện Việt Nam (VNPost); bốn là, hệ thống thông tin quản lý danh mục điện tử dùng chung phục vụ phát triển Chính phủ điện tử (Bộ Khoa học và Công nghệ).

Về phía các TCTD, hiện nay, ngoài việc kết nối, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để làm sạch thông tin khách hàng và kết nối với các ngành, lĩnh vực như y tế, giao thông, điện, nước… để cung cấp dịch vụ thanh toán, việc kết nối, khai thác các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác còn hạn chế. Trong khi các dữ liệu chuyên ngành về doanh nghiệp, thuế, bảo hiểm… là rất cần thiết cho ngành ngân hàng trong các hoạt động nghiệp vụ, đặc biệt là hoạt động tín dụng.

Hiện nay, triển khai Nghị quyết số 214/NQ-CP ngày 23/7/2025 của Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động của Chính phủ về thúc đẩy, tạo lập dữ liệu phục vụ chuyển đổi số toàn diện, các bộ, ngành đang tích cực triển khai kết nối, đồng bộ dữ liệu về Trung tâm Dữ liệu Quốc gia để bảo đảm dữ liệu “đúng, đủ, sạch, sống, thống nhất, dùng chung”.

Trong thời gian tới, khi Trung tâm Dữ liệu Quốc gia đã kết nối, đồng bộ và chia sẻ dữ liệu với các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành và đặc biệt là sàn dữ liệu đi vào hoạt động, các TCTD sẽ có thể kết nối, khai thác các nguồn dữ liệu nêu trên để phục vụ các hoạt động nghiệp vụ.

Hồng Dung thực hiện

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục