Báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) 2017 dự báo nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 6,5% trong năm 2017 và 6,7% trong năm 2018, nhờ sự gia tăng hoạt động trong các lĩnh vực chế tạo, xây dựng, thương mại bán buôn và bán lẻ, ngân hàng và du lịch. Dự báo chỉ số giá tiêu dùng bình quân tăng 4% năm 2017 và 5% năm 2018.
Báo cáo ghi nhận rằng những mức kỷ lục được duy trì trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ thúc đẩy ngành chế tạo trong nước, đồng thời giúp tăng nguồn thu từ xuất khẩu của Việt Nam ngay cả khi dòng thương mại khu vực và toàn cầu tiếp tục suy giảm. Tầng lớp trung lưu đang tăng nhanh của Việt Nam, được dự báo tăng gấp đôi so với hiện nay lên 33 triệu người vào năm 2030, cũng sẽ giúp gia tăng tiêu dùng cá nhân và thúc đẩy thương mại bán lẻ.
Sản lượng nông nghiệp được dự báo tăng nhẹ trong năm 2017 với viễn cảnh giá lương thực toàn cầu tăng và thời tiết bớt biến động hơn. Tuy nhiên, báo cáo nhấn mạnh rằng khu vực này tiếp tục tăng trưởng chậm hơn so với phần còn lại của nền kinh tế Việt Nam, làm giảm đà tăng trưởng chung.
Buổi công bố Báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) 2017
Ông Eric Sidgwick, Giám đốc Quốc gia của ADB tại Việt Nam nói: “Nông nghiệp đã luôn là một động lực quan trọng của tăng trưởng, giảm nghèo, an ninh lương thực và xuất khẩu kể từ khi chính phủ bắt đầu cải cách lĩnh vực này vào cuối thập niên 1980. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, trước sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng và năng suất lao động trong nước thấp, tăng trưởng của khu vực này đã chậm lại, chỉ khoảng 2%/năm kể từ năm 2011”
Theo ADB, khi Việt Nam bắt đầu phục hồi trở lại sau đợt hạn hán nặng nề nhất trong vòng một thập kỷ, thì vai trò của ngành nông nghiệp đối với nền kinh tế và khả năng đưa Việt Nam từ nước có thu nhập trung bình thấp lên trung bình cao đã nhận được sự quan tâm cao hơn về chính sách.
Ông Aaron Batten, chuyên gia kinh tế quốc gia ADB nhấn mạnh rằng, sản lượng nông nghiệp bình quân trên mỗi lao động ở Việt Nam chỉ bằng một phần ba của In-đô-nê-xia và chưa bằng một nửa so với Thái Lan và Phi-líp-pin.
Theo đó, chuyển đổi mạnh mẽ trong ngành nông nghiệp làm cho nông nghiệp trở nên hiệu quả và bền vững hơn là yếu tố thiết yếu để nâng cao tăng trưởng GDP cho Việt Nam, giúp cho Việt Nam trở thành nước có vị thế thu nhập trung bình cao. Để đạt được sự chuyển đổi này đòi hỏi phải giải quyết được bốn thách thức chính sách quan trọng như sau.
“Trong khi Việt Nam tiếp tục khắc phục những tác động ngày càng xấu của biến đổi khí hậu đối với nông nghiệp, các cải cách sâu rộng hơn và nguồn vốn đầu tư lớn hơn cho lĩnh vực này sẽ có vai trò then chốt để tăng năng suất nông nghiệp và bảo đảm tăng trưởng đồng đều và bền vững về môi trường trong dài hạn”, ông Sidgwick nói thêm.
Theo ông Aaron Batten, cần cấp thiết giải quyết những tác động ngày càng tiêu cực của biến đổi khí hậu đối với nông nghiệp. Việt Nam là một trong những nước dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu, và nông nghiệp càng đứng trước nguy cơ lớn hơn, vì nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện khí hậu và sinh thái nông nghiệp ổn định. Ngoài nguy cơ hạn hán, tài nguyên nước còn có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi xu hướng biến động dòng chảy ngày càng tăng của hệ thống sông ngòi, buộc người nông dân phải lệ thuộc nhiều hơn vào nước ngầm. Thuỷ sản và các nguồn lợi ven biển cũng rất dễ bị tổn thương trước thay đổi nhiệt độ, tình trạng úng lụt mất kiểm soát và xâm nhập mặn.
"Để chuẩn bị đầy đủ nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, Việt Nam cần có sự lãnh đạo mạnh mẽ, đảm bảo sao cho các cân nhắc về biến đổi khí hậu được lồng ghép đầy đủ vào công tác hoạch định chính sách, ưu tiên cho các dự án đầu tư xanh, thông minh như cải thiện quy hoạch tài nguyên nước và sử dụng nước hiệu quả hơn”, ông Aaron Batten nói.
Báo cáo ADB nhấn mạnh rằng để chuyển đổi nông nghiệp, cần giải quyết một số thách thức cơ bản trong chính sách – bao gồm tạo điều kiện cho cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong các chuỗi cung ứng nông nghiệp và chế biến sau thu hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn để hỗ trợ các mặt hàng nông sản mang lại giá trị gia tăng cao hơn, áp dụng các thông lệ quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững hơn, và tích hợp hiệu quả hơn những cân nhắc về biến đổi khí hậu vào trong các quy trình ra quyết định.