5 hạn chế của ngành cơ khí
Hạn chế thứ nhất được chỉ ra là điểm yếu về thị trường.
Theo ông Phạm Tuấn Anh, Phó cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công thương), ngành cơ khí Việt Nam khá đa dạng về sản phẩm, nhưng đang phải cạnh tranh ngày càng gay gắt với sản phẩm nhập khẩu.
Việc mở rộng thị trường vẫn còn nhiều khó khăn do thiếu thông tin thị trường và năng lực cạnh tranh trong nước chưa đủ mạnh. Ngay cả tại thị trường nội địa, các doanh nghiệp cơ khí cũng khó tham gia được vào các dự án đầu tư lắp đặt trang thiết bị ngành thép, hóa chất, năng lượng, chủ yếu là do thiếu hệ thống kiểm định chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế. Các doanh nghiệp, sản phẩm cơ khí trong nước cũng như chưa xây dựng được thương hiệu và được nhiều khách hàng biết đến.
Thứ hai là hạn chế về trình độ khoa học công nghệ.
Báo cáo của đại diện Cục Công nghiệp chỉ rõ: “Ngành cơ khí trong nước có rất ít các phát minh, sáng chế được đăng ký, thiết bị và trình độ công nghệ toàn ngành nhìn chung còn chậm đổi mới. Các doanh nghiệp cơ khí thiếu đầu ra cho sản phẩm nên cũng không có cơ hội tích lũy và đầu tư đổi mới công nghệ. Đây chính là vòng luẩn quẩn trong phát triển của ngành cơ khí Việt Nam”.
Bên cạnh đó, hàng rào kỹ thuật trong lĩnh vực cơ khí của Việt Nam vẫn chưa phát triển đủ mạnh để bảo về người tiêu dùng trong nước trước hàng nhập khẩu có chất lượng không phù hợp với người tiêu dùng Việt Nam.
“Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, các công nghệ mới đã ra đời, làm thay đổi hoàn toàn cách thức phương thức sản xuất hiện nay đặt ra yêu cầu cấp thiết hơn trong đổi mới và cập nhật xu thế công nghệ mới trong các doanh nghiệp cơ khí”, ông Tuấn Anh nói.
Thứ ba là hạn chế về nguyên phụ liệu.
Hiện nguyên phụ liệu cho ngành cơ khí chủ yếu là sắt thép và các loại hợp kim màu, tuy nhiên, hầu hết các nguyên phụ liệu này trong nước chưa sản xuất được buộc phải nhập khẩu.
Trong khi đó, ở trong nước chúng ta cũng chưa có chính sách hợp lý để khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu trong nước, từ đó nâng dần tỷ lệ nội địa hóa và thu mua nguyên phụ liệu trong nước.
Hạn chế thứ tư được đại diện Cục Công nghiệp chỉ ra là vấn đề về nguồn nhân lực.
Nhân lực ngành cơ khí nhìn chung còn thiếu và yếu cả về số lượng và chất lượng. Số thợ cơ khí có tay nghề cao còn hạn chế. Lực lượng nghiên cứu triển khai, nhất là lực lượng tư vấn thiết kế chưa có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu của các công trình, dự án về thiết bị cơ khí đồng bộ.
Và cuối cùng là vai trò của hiệp hội ngành nghề cơ khí chưa phát huy hiệu quả.
Hiệp hội ngành nghề chưa phát huy được tính đại diện trong tập hợp ý kiến và hành động chung; chưa thu hút được sự tham gia của các doanh nghiệp cơ khí và chưa liên kết chặt chẽ được các doanh nghiệp thành viên với nhau.
Sẽ có những chính sách, giải pháp mới
Với 5 điểm yếu trên, Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải cho rằng, ngành cơ khí trong nước còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết trước mắt trong bối cảnh thế giới đang nhanh chóng bước vào kỷ nguyên công nghệ với cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang tiến nhanh như vũ bão.
Năng lực sản xuất sản phẩm cơ khí còn thấp; số lượng doanh nghiệp trong ngành dù có tăng tương đối nhanh trong thời gian gần đây, nhưng vẫn còn khiêm tốn so với tổng số doanh nghiệp cả nước, trong khi đó chất lượng và quy mô các doanh nghiệp cơ khí còn nhỏ, thậm chí rất nhỏ.
Ông Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công thương phát biểu tại hội thảo.
Việt Nam nhập siêu nhiều sản phẩm cơ khí, chưa chủ động sản phẩm; mối liên kết doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài…
“Đây là những vấn đề hết sức quan ngại trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển rất mạnh mẽ”, ông Hải thẳng thắn chỉ rõ.
Trong bối cảnh này, các doanh nghiệp ngành cơ khí cũng thống nhất quan điểm chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam trong giai đoạn tới được Bộ Công thương đề xuất.
Đó là tập trung giải quyết triệt để các vấn đề về thị trường, vốn đầu tư, xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ sản xuất và khuyến khích tiêu thụ sản phẩm cơ khí nội địa cũng như có chính sách hỗ trợ phát triển cơ khí theo hướng áp dụng công nghệ cao, ngành công nghiệp phụ trợ.
Đồng thời, thúc đẩy kết nối và liên kết doanh nghiệp thông qua các chương trình kết nối kinh doanh giữa doanh nghiệp trong nước với nhau và với các doanh nghiệp lớn trên thế thới trong chuỗi giá trị để tiếp nhận công nghệ và tiêu chuẩn hóa sản phẩm.
Ông Hải cho biết, tới đây Bộ Công thương sẽ tiếp tục phối hợp với các cơ quan, ban ngành liên quan nghiên cứu trình Chính phủ ban hành những chính sách mới và đưa ra những giải pháp để giải quyết những khó khăn vướng mắc của các doanh nghiệp cũng như hạn chế của chính sách hiện hành.
"Trong bối cảnh hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0, những nhân tố mới xuất hiện đặt ra những yêu cầu mới đối với việc phát triển ngành công nghiệp cơ khí, cần những giải pháp, chính sách mới để đảm bảo cho sự cạnh tranh của ngành và sự tồn tại của các doanh nghiệp cơ khí trong nước", ông Hải nhấn mạnh.
Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, dù gặp nhiều khó khăn song thời gian gần đây, số lượng doanh nghiệp cơ khí tăng nhanh, từ khoảng 10.000 doanh nghiệp năm 2010 lên hơn 21.000 doanh nghiệp vào năm 2016, chiếm 28% tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến chế tạo, tạo ra việc làm cho hơn 1 triệu lao động, chiếm 17% tổng số lao động trong ngành.
Năm 2016, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm cơ khí đạt trên 13 tỷ USD, chủ yếu là các loại thiết bị gia dụng, phụ tùng linh kiện ô tô, xe máy. Nếu tính cả sắt thép các loại thì kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm cơ khí của Việt Nam đạt trên 16 tỷ USD. Hiện nay, cơ khí Việt Nam có thế mạnh tập trung ở 3 phân ngành bao gồm: Xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy; cơ khí gia dụng và dụng cụ; ô tô và phụ tùng ô tô.