Trong cơ cấu lợi nhuận 8 tháng của Công ty, phần đóng góp từ chênh lệch giá sản phẩm và dầu thô chiếm 28,9% (1.156 tỷ đồng), tăng sản lượng chế biến và xuất bán là 22,2% (889 tỷ đồng) và 53% (2.121 tỷ đồng) đến từ hoạt động tối ưu hóa và giảm chi phí của Nhà máy.
Các chỉ số kinh doanh của BSR trong 8 tháng đầu năm 2017 khá tích cực với tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu (ROE) đạt 12,1% và ROS là 8,5%.
Thực tiễn sản xuất kinh doanh qua các năm cho thấy, lợi nhuận của BSR, đơn vị vận hành Nhà máy lọc dầu Dung Quất luôn ổn định và bền vững nhờ vào 3 yếu tố chính.
Thứ nhất, khoảng cách chênh lệch giữa giá các sản phẩm chính bán ra và giá dầu thô nguyên liệu đầu vào (crack spread).
Mức crack spread của Nhà máy lọc dầu Dung Quất trong những năm qua tương đối tốt, luôn duy trì ổn định từ 11 – 15 USD/thùng, điều đó góp phần lý giải tại sao mức lợi nhuận của Nhà máy tích cực mặc dù giá dầu thô trong thời gian từ cuối năm 2014 đến nay luôn duy trì ở mức thấp.
Ngoài ra, việc đầu tư bổ sung và đưa vào vận hành phân xưởng thu hồi lưu huỳnh SRU2 từ tháng 8/2015 đã giúp Nhà máy tăng khả năng tiếp nhận, phối trộn và chế biến các loại dầu thô xấu hơn (tỷ trọng và hàm lượng lưu huỳnh cao hơn) có giá thấp hơn.
Đến nay, Nhà máy có khả năng chế biến đa dạng trên 67 chủng loại dầu thô khác nhau ngoài dầu thô Bạch Hổ (10 loại dầu trong nước và trên 57 loại dầu nước ngoài). Trong đó, có nhiều chủng loại dầu có tỷ lệ phối trộn thay thế dầu Bạch Hổ với tỷ lệ lên đến trên 50% như Sử Tử Đen, Tê Giác Trắng, Azeri Light… Điều này tạo ra cơ hội lớn cho nhà máy trong việc lựa chọn nguồn cung dầu thô với giá rẻ, cạnh tranh hơn trong những năm đến.
Biều đồ xu hướng giá dầu thô và sản phẩm chính từ năm 2014 đến nay.
Nguồn: Platts Singapore & BSR
Thứ hai, BSR chú trọng nâng cao sản lượng sản xuất và xuất bán ra thị trường nhằm tối đa doanh thu và lợi nhuận. Để làm được điều đó, Nhà máy phải luôn được duy trì vận hành an toàn, liên tục ở công suất cao.
Hiện tại, hầu hết các phân xưởng công nghệ chính của Nhà máy đều chạy ở công suất tối đa trong giới hạn an toàn. Các phân xưởng này đang được nghiên cứu, đánh giá để tiếp tục tăng tối đa công suất vận trong các năm tiếp theo.
Đồng thời, BSR luôn chủ động tăng cường công tác bán hàng, mở rộng thị trường/thị phần, phát triển các đầu mối tiêu thụ trong và ngoài nước. Hằng năm, Nhà máy lọc dầu Dung Quất cung cấp ra thị trường trung bình khoảng 7,5 – 8 triệu tấn sản phẩm các loại (vượt từ 15% - 25% so với kế hoạch).
Thứ ba, BSR tối ưu hóa giảm chi phí vận hành (OPEX) của Nhà máy thông qua chiến lược và lộ trình tổng thể trong việc triển khai áp dụng các sáng kiến, cải tiến, công trình nghiên cứu khoa học nhằm tối ưu hóa và hợp lý hóa sản xuất, công nghệ, giảm tiêu hao năng lượng.
Bên cạnh đó, BSR tích cực giảm lưu kho vật tư, hóa phẩm xúc tác, dầu thô và sản phẩm; giảm hao hụt mất mát dầu thô và sản phẩm, linh động các chế độ vận hành nhằm tối đa sản phẩm có hiệu quả cao theo nhu cầu của thị trường…, kết hợp với các giải pháp quản lý, quản trị tiên tiến nhằm tiết giảm chi phí quản lý chung và chi phí tài chính.
Chẳng hạn, Chỉ số tối ưu hóa năng lượng Energy Intensity Index (EII) của Nhà máy lọc dầu Dung Quất từ 118% đầu năm 2015 xuống 103 - 104% như hiện nay đã giúp tăng thêm lợi nhuận cho BSR từ 40 – 45 triệu USD/năm.
Quan điểm và mục tiêu chiến lược của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) là phát triển đồng bộ, toàn diện ngành Công nghiệp Dầu khí Việt Nam, hoàn chỉnh chuỗi giá trị từ khâu thượng nguồn (khai thác) đến hạ nguồn (chế biến), tập trung vào 5 lĩnh vực chính là thăm dò – khai thác, lọc hóa dầu, công nghiệp khí, công nghiệp điện và dịch vụ kỹ thuật.
Trong lĩnh vực lọc – hóa dầu, Nhà máy lọc dầu Dung Quất được quy hoạch trở thành trung tâm lọc - hóa dầu và năng lượng quốc gia tại Bình Sơn, Quảng Ngãi, cùng với Tổ hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn (NSRP), Long Sơn (LSP) nhằm đa dạng hóa sản phẩm giá trị cao, nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Hiện Nhà máy lọc dầu Dung Quất có công suất chế biến trên 6,5 triệu tấn dầu thô/năm; cung cấp sản phẩm LPG, xăng dầu và hóa dầu có chất lượng cao, đáp ứng trên 30% nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Khác với khâu thượng nguồn là lĩnh vực khai thác dầu thô, lĩnh vực hạ nguồn về chế biến lọc hóa dầu thực hiện phần gia công chế biến từ dầu thô cho ra các sản phẩm dầu mỏ, tạo ra giá trị gia tăng rất lớn với các sản phẩm có giá trị sử dụng và giá trị kinh tế cao từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất như xăng, dầu, hạt nhựa PP…
Bên cạnh đó, do ít bị ảnh hưởng bởi xu hướng tăng/giảm giá dầu thô nguyên liệu đầu vào nên hiệu quả và lợi nhuận của BSR luôn ổn định và tăng trưởng qua các năm (trung bình từ 4 – 6 ngàn tỷ đồng/năm).