25 năm thu hút FDI, thành công và vấp váp

(ĐTCK)Bài học thành công và thất bại trong kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, trong đó có thu hút FDI là tài sản quý giá để người Việt Nam khôn ngoan hơn...
25 năm thu hút FDI, thành công và vấp váp

GS.TSKH Nguyễn Mại Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài

GS.TSKH Nguyễn Mại

Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài

Gần 25 năm đã qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời vào tháng 12 năm 1987. Thành tựu nhiều, nhưng không phải là không có những hạn chế trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Giờ là lúc cần phải dựa trên hệ tiêu chí khoa học để đánh giá khách quan, toàn diện kết quả, tác động của FDI, phát hiện những vấn đề cần giải quyết làm căn cứ để đề ra định hướng mới, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dòng vốn FDI trong thời gian tới.

 

Dấu ấn từ những con số

Cuối năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua, khi nước ta còn trong vòng xoáy cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, lạm phát phi mã, sản xuất và lưu thông chậm phát triển, làm không đủ ăn, buộc phải dùng tem phiếu “phân phối sự thiếu thốn”; khi các nước “phương Tây” cấm vận đối với Việt Nam, quan hệ kinh tế đối ngoại hầu như chỉ bó hẹp trong khung khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế với 12 nước xã hội chủ nghĩa (cũ).

Luật Đầu tư nước ngoài 1987 được dư luận quốc tế đánh giá cao. Hoạt động FDI là khâu đột phá trong hội nhập kinh tế quốc tế nhờ thị trường đầy tiềm năng của Việt Nam có sức hấp dẫn hàng trăm nhà đầu tư quốc tế, trong đó có các nước đang thi hành chính sách cấm vận đối với nước ta, điển hình là Mỹ. Mặc dù cuối năm 1994, Tổng thống Bill Clinton mới bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, nhưng một số nhà đầu tư nước này thông qua nước thứ ba đã thực hiện nhiều dự án FDI ở nước ta từ năm 1989.

Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, ba năm đầu 1988 - 1990, FDI chưa tác động rõ rệt đến tình hình kinh tế - xã hội nước ta. Nhưng từ năm 1991 đến năm 1997 đã diễn ra làn sóng FDI thứ nhất, với 2.230 dự án và vốn đăng ký 16,244 tỷ USD, vốn thực hiện 12,98 tỷ USD. Trong đó, chỉ riêng năm 1997, vốn thực hiện đã đạt 3,115 tỷ USD, gấp 9,5 lần năm 1991.

Tuy nhiên, từ năm 1998 đến năm 2004, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, nên trong số 3.968 dự án mới, phần lớn có quy mô nhỏ, vốn đăng ký năm 1998 chỉ là 5,099 tỷ USD, năm 2000 là 2,838 tỷ USD, năm 2004 là 4,547 tỷ USD. Trong khi đó, vốn thực hiện trong giai đoạn này là 17,66 tỷ USD, chỉ tăng 36% so với giai đoạn 1991-1997.

Nhưng năm 2005 lại mở đầu làn sóng FDI thứ hai vào Việt Nam, với vốn đăng ký 6,839 tỷ USD và vốn thực hiện 3,3 tỷ USD. Từ năm 2006 tới nay, Việt Nam đã thu hút được một lượng lớn vốn FDI. Con số giải ngân cũng khá tích cực (xem bảng).

Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, tính chung, từ năm 1988 đến năm 2011, tổng vốn đăng ký còn hiệu lực của 13.496 dự án FDI là 195,9 tỷ USD, vốn thực hiện là 88,2 tỷ USD, chiếm 43,2% vốn đăng ký.

25 năm thu hút FDI, thành công và vấp váp   ảnh 2

Dòng vốn FDI đã góp phần hình thành các khu đô thị hiện đại, nhiều khách sạn 4-5 sao, khu nghỉ dưỡng cao cấp

Những đóng góp to lớn

Có thể nói, FDI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội 1991 - 2000 là 30%, 2001 - 2005 là 16%, 2006 - 2011 là 28%. Các doanh nghiệp FDI đóng góp vào GDP thời kỳ 2001 - 2005 là 14,5%, tăng lên 20% năm 2010; nộp ngân sách nhà nước năm 2010 là 3,1 tỷ USD gần bằng cả 5 năm 2001 - 2005 (3,5 tỷ USD). FDI tạo ra khoảng 40% giá trị sản lượng công nghiệp, có tốc độ tăng khá cao, 2001- 2010 tăng 17,4%/năm trong khi toàn ngành công nghiệp tăng 16,3%/năm. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh, 2001 - 2005 là 57,8 tỷ USD, 2006 - 2010 là 154,9 tỷ USD, bằng 2,67 lần, chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (kể cả dầu thô).

Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng hình thành nhiều ngành kinh tế, như khai thác, lọc hóa dầu, ô tô, xe máy, điện tử, xi măng, sắt thép, thực phẩm, thức ăn gia súc; cũng như góp phần hình thành một số khu đô thị hiện đại như Phú Mỹ Hưng, Nam Thăng Long, nhiều khách sạn 4- 5 sao, khu nghỉ dưỡng cao cấp, văn phòng cho thuê... Lĩnh vực dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, bán buôn, bán lẻ đã du nhập phương thức kinh doanh hiện đại, công nghệ tiên tiến, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp dân cư.

Một thành tựu khác, tính đến cuối  năm 2011, khu vực FDI tạo ra hơn 2,3 triệu việc làm trực tiếp và hàng triệu việc làm gián tiếp, trong đó có hàng vạn kỹ sư, nhà quản lý trình độ cao, đội ngũ công nhân lành nghề, với thu nhập ngày càng tăng, du nhập phương thức lao động, kinh doanh và quản lý tiên tiến.

 

Còn đó những nỗi lo

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, hoạt động FDI cũng đã bộc lộ những nhược điểm và khuyết điểm, như chưa phù hợp với quy hoạch phát triển ngành và vùng kinh tế, một số máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu đã được nhập khẩu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng... Chuyện ô nhiễm ở sông Thị Vải, sông Cầu, sông Nhuệ là ví dụ điển hình.

Cùng với đó, cũng đã xảy ra “cuộc chiến giữa các tỉnh, thành phố chào mời nhà đầu tư quốc tế” bằng những ưu đãi quá mức thuế, tiền thuê đất, ảnh hưởng tiêu cực đến phúc lợi chung của cộng đồng. Đã xảy ra tranh chấp lao động trong một số doanh nghiệp FDI. Gần đây, việc “chuyển giá” của một số doanh nghiệp FDI, gây ra tình trạng “lỗ giả lãi thật” nổi lên như vấn đề thời sự.

Nhiều bài báo đã đề cập các vấn đề đó, bài này chỉ lưu ý thêm hai thông tin:

 Một là, theo báo cáo “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2010” của Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) và Dự án Nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) trên cơ sở khảo sát 1.155 doanh nghiệp của 47 quốc gia, đại diện cho 21% số doanh nghiệp FDI đang hoạt động thì “doanh nghiệp FDI tại Việt Nam có quy mô tương đối nhỏ và có lợi nhuận thấp, chủ yếu làm thầu phụ cho các công ty đa quốc gia lớn hơn, do đó thường nằm trong khâu thấp nhất của giá trị sản phẩm”; khoảng 5% doanh nghiệp FDI hoạt động trong ngành công nghệ hiện đại, 5% vào dịch vụ khoa học - công nghệ, 3,5% vào dịch vụ tài chính, quản lý đòi hỏi kỹ năng cao.

Hai là, khi trả lời câu hỏi doanh nghiệp có ý định cân nhắc đầu tư ở nước khác hay chỉ tập trung đầu tư ở Việt Nam, thì 55% doanh nghiệp tham gia phỏng vấn cho biết, có cân nhắc đầu tư ở nước khác, trong đó 30% sang Trung Quốc, 10% sang Thái Lan, 8% sang Campuchia, 6% sang Indonesia, 4% sang Philippines và 4% sang Lào.

Mặc dù các tư liệu điều tra chọn mẫu chỉ có tính tham khảo, nhưng cũng báo động rằng, nước ta đã chậm chuyển đổi định hướng chính sách FDI từ đầu thế kỷ XXI. Môi trường đầu tư tuy đã được cải thiện, nhưng so với nhiều nước trong khu vực thì chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư có tiềm năng lớn. Đối với Việt Nam, cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư càng gay gắt hơn khi theo xếp hạng năm 2011, Trung Quốc vẫn dẫn đầu, Indonesia, Malaysia và Singapore lọt vào top 10 quốc gia có môi trường đầu tư tốt nhất thế giới; và khi trong số 5 nước mới nổi BRICS, thì 4 nước đã lọt vào danh sách 10 quốc gia có nền kinh tế hàng đầu thế giới, là Trung Quốc (thứ 2), Brazil (thứ 6), Nga (thứ 9) và Ấn Độ (thứ 10). Với dân số gần 3 tỷ người, 4 nước này là những thị trường hấp dẫn FDI nhất thế giới.

 

25 năm thu hút FDI, thành công và vấp váp   ảnh 3

Các cuộc vận động đầu tư cần hướng chủ yếu vào những dự án công nghệ cao

Tầm nhìn 2012 và sự chuyển hướng chính sách

Năm 2012, tình hình kinh tế quốc tế biến động theo chiều hướng không thuận lợi, giá cả thị trường thế giới có xu hướng giảm, nợ công ở nhiều nước vẫn là nguy cơ lớn. Bà Christine Lagarde, Giám đốc quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng: “Kinh tế thế giới đang ở trong trạng thái hiểm nghèo”.

Tuy vậy, cũng có dự báo về khả năng phục hồi kinh tế của các nước lớn, khu vực Đông Á vẫn dẫn đầu tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch thành trung tâm phát triển kinh tế thế giới.

Trong bối cảnh đó, Báo cáo đầu tư quốc tế 2011 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc ( UNCTAD) dự báo FDI quốc tế năm 2012 là 1.700 tỷ USD, cao hơn năm 2011 (1.400-1.600 tỷ USD). Trong khi đó, con số này của năm 2013 là 1.900 tỷ USD, bằng năm cao nhất - 2007. Lần đầu tiên FDI vào các nước đang phát triển và đang chuyển đổi chiếm gần 50% FDI thế giới.

Việt Nam được chuyên gia kinh tế đánh giá là quốc gia dễ bị tổn thương nhất trong các nền kinh tế châu Á trước sự biến động của kinh tế thế giới, vì tình trạng lạm phát cao, doanh nghiệp chưa đủ mạnh, thâm hụt ngân sách lớn và hoạt động của hệ thống ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Năm 2012, nền kinh tế nước ta vừa phải khắc phục hậu quả của năm 2011, vừa bắt đầu tái cơ cấu kinh tế theo mô hình tăng trưởng mới. Việt Nam đồng thời đứng trước thời cơ lớn khi quan hệ đối ngoại với các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU, Ấn Độ được nâng cấp; ASEAN đang tiến tới Cộng đồng chung. Việt Nam không chỉ được nhiều nhà đầu tư nhận định là có ưu thế về ổn định chính trị, an ninh xã hội, mà trước tình hình thiên tai, như động đất và sóng thần ở Nhật Bản, lũ lụt kéo dài nhiều tháng ở Thái Lan, cũng đã được nhiều doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn là địa điểm đầu tư thích hợp để bảo đảm hoạt động sản xuất và kinh doanh lâu dài.

Cần khẳng định rằng, FDI tiếp tục là nguồn vốn quốc tế quan trọng nhất đối với Việt Nam, khi viện trợ phát triển (ODA) đang có xu hướng giảm, khi đầu tư gián tiếp khá bấp bênh. Chính phủ cần đưa ra thông điệp rõ ràng về định hướng FDI mới chuyển sang chính sách nâng cấp FDI, coi trọng hơn chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội.

Chính sách nâng cấp FDI được hình thành theo các hướng ưu tiên dự án công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, công nghiệp phụ trợ, dịch vụ hiện đại, xây dựng khu kinh tế đặc biệt, thiết lập mối liên kết giữa các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) hàng đầu thế giới từ các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) với doanh nghiệp trong nước nhằm làm cho các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi nhờ vào hợp tác, phân công về công nghệ và thị trường với TNCs; khuyến khích TNCs hợp tác với các cơ sở đào tạo bậc đại học và dạy nghề trình độ cao, các tổ chức nghiên cứu khoa học để nâng cao  trình độ và năng lực của các đơn vị đó.

 

25 năm thu hút FDI, thành công và vấp váp   ảnh 4

Đổi mới đồng bộ để nâng chất dòng vốn FDI

Trên cơ sở định hướng FDI mới, cần đổi mới đồng bộ về thể chế, luật pháp, công tác quy hoạch, quản lý nhà nước như xúc tiến đầu tư, thẩm định, cấp phép, hướng dẫn, triển khai dự án, theo dõi, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất - kinh doanh, cải tiến phân cấp quản lý, thiết lập hệ thống thu thập và xử lý thông tin về FDI.

Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cần được sửa đổi cơ bản bởi vì đã bộc lộ nhiều nhược điểm đang cản trở hoạt động FDI. Một số chuyên gia kiến nghị,  xây dựng Luật Doanh nghiệp mới với những điều khoản đáp ứng đòi hỏi đầu tư, kinh doanh và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới, đủ chi tiết để điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Nghị định của Chính phủ chỉ để hướng dẫn thi hành luật, không chứa đựng nội dung luật như hiện nay, tốt nhất là không có thông tư của các bộ.

Đối với Luật Đầu tư năm 2005, nhiều ý kiến nhận xét rằng, nội dung của luật này trùng lặp với nhiều luật khác, do vậy nên hình thành Chương Đầu tư trong Luật Doanh nghiệp, bởi vì đầu tư là hoạt động chính của doanh nghiệp. Cũng có ý kiến cho rằng, trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2005 không chú ý đặc điểm của FDI và doanh nghiệp FDI, nên đã không điều chỉnh được mọi hành vi liên quan đến FDI, làm giảm hiệu năng quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế này. Do vậy, Luật Doanh nghiệp mới cần khắc phục nhược điểm đó.

Hơn thế, trước thực trạng nhiều doanh nghiệp FDI đang gặp khó khăn do tác động từ khủng hoảng kinh tế thế giới và lạm phát cao trong nước, thì Chính phủ và chính quyền các cấp cần tiếp cận, hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua tình trạng kinh doanh kém hiệu quả. Đó chính là cách xúc tiến đầu tư tốt nhất, vì chính các doanh nghiệp này sẽ quảng bá rộng rãi chính sách và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước ra bên ngoài.

Các cuộc vận động đầu tư cần hướng chủ yếu vào 500 TNCs hàng đầu thế giới đối với dự án công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, nghiên cứu và phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thường xuyên cập nhật thông tin về điều kiện đảm bảo đầu tư theo yêu cầu của từng TNCs thay cho những cuộc hội thảo đông người kém hiệu quả. Sau khủng hoảng kinh tế thế giới, TNCs điều chỉnh thị trường đầu tư, có thể Việt Nam không còn được lựa chọn hoặc được đưa vào diện ưu tiên, do đó cần theo dõi để biết được chiến lược đầu tư mới của  TNCs.

Các bộ lập và công bố quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật đủ chi tiết, gắn với quy hoạch vùng lãnh thổ, xây dựng tiêu chuẩn, định mức để hướng dẫn chính quyền địa phương thực hiện, bảo đảm việc phân cấp quản lý vừa phát huy được tính năng động, sáng kiến của tỉnh, thành phố, vừa bảo vệ lợi ích quốc gia. Trên cơ sở đó, chuyển trọng tâm quản lý nhà nước đối với FDI sang hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra doanh nghiệp khi đưa dự án đầu tư vào hoạt động theo đúng quy định luật pháp.

Hiện nay, Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đang xây dựng Trung tâm Thông tin được nối mạng với các sở kế hoạch và đầu tư, ban quản lý KCN, KKT, doanh nghiệp FDI, hải quan, cơ quan thuế, ngân hàng để khắc phục nhược điểm thiếu thông tin, không cập nhật, nhằm đánh giá đúng thực trạng và đề ra giải pháp xử lý kịp thời đối với hoạt động FDI trong cả nước. Đây là điều đáng mừng.

Bài học thành công và thất bại trong kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, trong đó có thu hút FDI là tài sản quý giá để người Việt Nam khôn ngoan hơn, để tiếp nhận vốn đầu tư quốc tế có hiệu quả hơn và phát triển bền vững hơn.

GS.TSKH Nguyễn Mại
GS.TSKH Nguyễn Mại

Tin cùng chuyên mục